Chu Thập
1.5.15

“Trải qua một cuộc bể dâu”, tôi cũng thấy mình đã cầm trong tay không biết
bao nhiêu thẻ căn cước. Tấm thẻ căn cước đầu đời khẳng định sự trưởng thành,
các quyền công dân và quyền con người của tôi, đã được chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa cấp phát cho tôi vào giữa thập niên 1960, dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu. Với thẻ căn cước bọc nhựa, trên đó có ghi dấu tay của tôi, ít nhứt trước
năm 1975, tôi đã hiểu được thế nào là dân chủ và nhân quyền, dù cho Việt Nam Cộng
Hòa vào thời đó vẫn còn là một nền dân chủ non dại. Những lần đi bầu cử là những
lần tôi thực sự thể hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình.
Sau năm 1975, tôi đã nâng niu và cất giữ tấm thẻ căn cước bọc nhựa này như
một báu vật. Nhưng tiếc quá, trong chuyến vượt biên, tôi đã đánh mất nó. Có lẽ
đây là lúc tôi mới thực sự cảm nghiệm được thế nào là “mất nước”. Với tư cách
là một công dân, cùng với sự đánh mất tấm thẻ căn cước ấy, tôi đã mất tất cả.
Trong 5 năm sống và “sờ sẫm” được bộ mặt thật của xã hội chủ nghĩa, tôi thấy
mình chẳng khác nào một người tỵ nạn ngay trên quê hương mình: tôi không có được
bất cứ một thứ giấy tờ tùy thân nào trong người! Khoảng năm 1980, khi Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam bắt đầu cấp phát “Chứng minh nhân dân”, không hiểu vì
một lý do nào đó, tôi bị lọt sổ. Nếu hiểu đúng nghĩa của bốn chữ “chứng minh
nhân dân” trong chế độ cộng sản, thì quả thật tôi chưa có đủ bằng chứng để được
chứng minh là một thành phần của “nhân dân”. Mặc dù không hề có bất cứ “nợ máu”
nào, tôi cũng không được làm công dân của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không
được “chứng minh” là “nhân dân” cho nên đi lại, dù chỉ trong chu vi 5,10 cây số,
là chuyện trần ai khoai củ đối với tôi. Sau này, khi tìm đường vượt biên, trốn
vào Sài Gòn, tôi mới nhờ một người bạn đang làm việc trong một nhà in, “cấp
phát” cho tôi thẻ “công nhân xây dựng” của một công ty ma nào đó ở Vũng Tàu. Thời
đó, cầm trong tay một xấp giấy in Ronéo có đóng dấu bằng củ khoai là hầu như cửa
ải nào cũng lọt qua được. Huống chi tài liệu “xác minh” tôi là “công nhân xây dựng”
lại là một tờ giấy in hẳn hoi được một công ty đóng dấu đàng hoàng. Đây là lúc
tôi cảm thấy tự tin nhứt trong những ngày sống lang thang ở Sài Gòn và Vũng
Tàu.
Nhưng những thứ giấy tờ mà tôi đã có được do cái thói quen giả mạo của người
cộng sản, không phải là “căn cước” thật sự của mình, cho nên khi bước lên tàu
vượt biên, tôi đã nhờ biển cả thủ tiêu hết. Đó là bước đầu trong cuộc đổi đời của
tôi: tôi muốn gột rửa hết những vết tích của giả mạo, dối trá mà chế độ đã vô
tình ghi khắc trên con người tôi.
Mãi cho đến khi được định cư tại Pháp, tôi mới được cấp phát cho một thẻ
căn cước theo đúng nghĩa. Cho tới nay, dù có thể quăng hay đốt bất cứ tài liệu
nào, tôi vẫn trân trọng cất giữ “Thẻ chứng nhận tỵ nạn” (Certificat de réfugié)
do Văn phòng Bảo vệ Người Tỵ nạn và Vô Tổ quốc của Chính phủ Pháp cấp phát. Tôi
không thích cái chữ “vô tổ quốc” (apatrides) được ghi trên thẻ chứng nhận tỵ nạn
của tôi. Dù có bỏ nước ra đi, tôi vẫn mãi có một quê hương và tổ quốc. Bên cạnh
thẻ chứng nhận tỵ nạn, tôi cũng xin được một “Sổ
thông hành” (Titre de Voyage = Travel Document) dành cho người tỵ nạn. Với hai
thẻ này, chỉ một thời gian ngắn sau khi đến Pháp, tôi đã có thể đi lại hầu hết
các nước Âu Châu không cộng sản. Đây là lúc tôi mới thực sự cảm nhận được thế
nào là “không gì quý bằng tự do”. Và ngày nay, mang quốc tịch Úc, tôi đã có thể
đi lại khắp nơi, kể cả quay trở về Việt Nam. Nhưng dù có là “công dân của thế
giới” đi nữa, như người tỵ nạn nổi tiếng nhứt trên thế giới là Đức Đại Lai Lạt
Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, thường nói về mình, tôi vẫn không bao
giờ có thể xóa bỏ khỏi tâm tư mình cái căn cước tỵ nạn ấy. Thẻ chứng nhận tỵ nạn
và sổ thông hành dành cho người tỵ nạn được tôi cất giữ một cách trân quý là để
tự nhắc nhở rằng tôi vẫn mãi mãi mang thẻ căn cước tỵ nạn trong trái tim mình.
Căn cước ấy không chỉ là một vật kỷ niệm ghi dấu một bước đầu quan trọng trong
cuộc đổi đời sau khi trốn thoát khỏi chế độ cộng sản. Nó vẫn mãi mãi xác định
những suy nghĩ, tư cách, những cuộc chiến đấu trong bản thân tôi. Giữa một đám
đông những người không cùng màu da, ngôn ngữ, văn hóa với mình, tôi càng ý thức
một cách mãnh liệt rằng lý do hiện hữu của tôi ở nơi xa lạ này chính là tư cách
tỵ nạn của tôi. Đi xa ngộ cố tri, gặp gỡ đồng bào và đồng hương trong những cuộc
vui, trong các sinh hoạt xã hội, văn hóa, tôn giáo hay bất cứ một sinh hoạt
nào, tôi cũng đều trở về với ý nghĩ: tôi sẽ không có mặt ở đây nếu tôi không phải
là một người tỵ nạn.
Tỵ nạn và nhứt là tỵ nạn chính trị có nghĩa là trốn thoát khỏi một chế độ
áp bức. Là người tỵ nạn cộng sản, tôi không chỉ trốn chạy khỏi một chế độ độc
tài, độc ác và dã man, tôi không chỉ căm ghét những người cộng sản. Căn cước tỵ
nạn cộng sản của tôi cũng đòi hỏi và nhắc nhở tôi phải không ngừng chiến đấu
trong chính bản thân tôi để loại trừ tất cả những gì là tồi tệ nhứt làm nên chế
độ cộng sản như thù hận, dối trá và độc ác. Bao lâu chế độ cộng sản vẫn còn tồn
tại, tôi vẫn tiếp tục là một người tỵ nạn cộng sản và vẫn luôn được thúc đẩy để
“chống cộng”, nghĩa là trước tiên chống lại những “cái thói cộng sản” vốn đã
bám vào con người của tôi.
Là một người tỵ nạn được đón nhận làm công dân của một xứ sở mới, căn cước
tỵ nạn cũng không ngừng gợi lên trong tôi một trong những tâm tình căn bản nhứt
giúp tôi trưởng thành hơn trong nhân cách là lòng biết ơn. Tôi tin chắc rằng
lòng biết ơn là một trong những nền móng vững chắc làm nên Hoa Kỳ. Trong rất nhiều cuộc lễ được cử hành
trong năm, quốc gia này đã dành riêng một ngày “Tạ ơn” không chỉ để nhắc nhở về một biến cố lịch sử
trong thời kỳ lập quốc, mà còn để không ngừng khơi dậy trong trái tim người dân
một trong những tâm tình cao quý nhứt của con người là lòng biết ơn.
Bên cạnh những tên gọi không thể xóa bỏ được khỏi ký ức người Việt tỵ nạn
như Ngày Quốc Hận, Ngày Mất Nước, Ngày Hành Trình về Tự Do... riêng tôi vẫn xem
ngày 30 tháng Tư hàng năm như một Ngày Tạ Ơn. Tạ ơn cộng đồng thế giới đã biết
ngồi lại với nhau để đưa ra một Công Ước nhìn nhận và bảo vệ người tỵ nạn. Tạ
ơn các quốc gia đã mở cửa đón nhận người tỵ nạn và các quốc gia đã cho người tỵ
nạn được đến cư trú và chọn làm quê hương thứ hai. Tạ ơn thế giới văn minh đã
không chỉ giải thoát người tỵ nạn khỏi những chế độ áp bức, mà còn tạo điều kiện
để họ sống xứng với phẩm giá con người.
Xét cho cùng, cái căn cước tỵ nạn cộng sản đã được ghi khắc trong tôi chẳng
khác nào dấu ấn của “Phép Rửa” trong Kitô Giáo. Đó là một thứ “Đạo” mới của
tôi. Tôi không chỉ tuyên xưng “Đạo” ấy trong các cuộc biểu tình đả đảo Cộng Sản.
Tôi không chỉ “rao giảng” “Đạo” ấy mỗi năm một lần vào ngày 30 tháng 4 trước
tòa đại sứ Việt Cộng ở Canberra. Tôi thấy mình phải sống “Đạo” ấy qua cuộc sống
hàng ngày. “Đạo” ấy đòi hỏi tôi phải tuân thủ luật pháp, sống thành thật, tôn
trọng lẽ công bình, đấu tranh cho lẽ phải, thể hiện tình liên đới và bao dung như
tôi đã từng được người khác đối xử một cách quảng đại.
Xin được mãi mãi mang trong người căn cước tỵ nạn ấy để cố gắng vươn lên
trong sự trưởng thành nhân cách.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét