Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2015

Vẫn mãi là người tỵ nạn



Chu Thập
1.5.15


Cuốn phim “The Age of Adeline” (Tuổi của nàng Adeline) hiện đang được chiếu tại Úc, dù chẳng có chút hơi hám chính trị nào, vậy mà cũng khiến tôi nhớ đến thân phận hay đúng hơn “căn cước” tỵ nạn của mình. Sở dĩ có sự liên tưởng như thế là bởi vì cuốn phim thuộc loại vừa khoa học giả tưởng vừa tình cảm ướt át này đã được cho mở đầu với hình ảnh một thiếu phụ trẻ đẹp bước ra khỏi một chỗ chuyên làm giấy tờ giả, trên tay cầm một lúc đến 5,7 cái thẻ căn cước. Thật ra đây không phải là một thiếu phụ mà là một “cụ bà” sinh vào đầu thế kỷ 20. Sau khi có một đứa con với một người chồng vừa mới qua đời do một tai nạn trong xưởng làm, người thiếu phụ 29 tuổi gặp một tai nạn giao thông. Chìm sâu trong một hồ nước, tim người thiếu phụ hoàn toàn ngưng đập trong một hồi lâu. Nhưng do tác động khác thường của một số yếu tố như nước lạnh và một cơn sấm sét long trời lở đất, tim của chị bắt đầu đập lại và đập lại theo nhịp của một người đã vượt qua được mọi biên giới của tuổi già và sự chết. Đây quả là một giấc mơ đã thành sự thật mà nhân loại từ cổ chí kim đều khao khát có được. Nhưng trẻ mãi không già và trường sinh bất tử, đối với người thiếu phụ này, lại là một cơn ác mộng. Sau nhiều cuộc phiêu lưu tình cảm, chị thấy ngao ngán cho thân phận bất tử của mình.
Bởi lẽ, như một người tình cũ, được thể hiện qua sự nhập vai xuất sắc của tài tử gạo cội Harrison Ford, đã nói người con trai của mình: “Cô ta không còn khả năng để thay đổi”. Quả thật, không còn khả năng thay đổi là cả một thảm kịch đối với người thiếu phụ. Bao nhiêu người tình đến rồi đi, trẻ rồi già. Còn chị thì vẫn cứ “trơ gan với tuế nguyệt” cho nên không thể nào thích nghi và chạy theo sự thay đổi của những người tình. May cho chị, vào cuối cuốn phim, cũng do một tai nạn giao thông, chị đã được thiên nhiên trao trả lại khả năng có thể thay đổi, nghĩa là có thể già và chết như mọi người. Kể từ giây phút đó, chị mới thực sự chấp nhận cuộc sống, chấp nhận con người của mình, chấp nhận “căn cước” đích thực của mình.
“Trải qua một cuộc bể dâu”, tôi cũng thấy mình đã cầm trong tay không biết bao nhiêu thẻ căn cước. Tấm thẻ căn cước đầu đời khẳng định sự trưởng thành, các quyền công dân và quyền con người của tôi, đã được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cấp phát cho tôi vào giữa thập niên 1960, dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Với thẻ căn cước bọc nhựa, trên đó có ghi dấu tay của tôi, ít nhứt trước năm 1975, tôi đã hiểu được thế nào là dân chủ và nhân quyền, dù cho Việt Nam Cộng Hòa vào thời đó vẫn còn là một nền dân chủ non dại. Những lần đi bầu cử là những lần tôi thực sự thể hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình.
Sau năm 1975, tôi đã nâng niu và cất giữ tấm thẻ căn cước bọc nhựa này như một báu vật. Nhưng tiếc quá, trong chuyến vượt biên, tôi đã đánh mất nó. Có lẽ đây là lúc tôi mới thực sự cảm nghiệm được thế nào là “mất nước”. Với tư cách là một công dân, cùng với sự đánh mất tấm thẻ căn cước ấy, tôi đã mất tất cả.
Trong 5 năm sống và “sờ sẫm” được bộ mặt thật của xã hội chủ nghĩa, tôi thấy mình chẳng khác nào một người tỵ nạn ngay trên quê hương mình: tôi không có được bất cứ một thứ giấy tờ tùy thân nào trong người! Khoảng năm 1980, khi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam bắt đầu cấp phát “Chứng minh nhân dân”, không hiểu vì một lý do nào đó, tôi bị lọt sổ. Nếu hiểu đúng nghĩa của bốn chữ “chứng minh nhân dân” trong chế độ cộng sản, thì quả thật tôi chưa có đủ bằng chứng để được chứng minh là một thành phần của “nhân dân”. Mặc dù không hề có bất cứ “nợ máu” nào, tôi cũng không được làm công dân của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không được “chứng minh” là “nhân dân” cho nên đi lại, dù chỉ trong chu vi 5,10 cây số, là chuyện trần ai khoai củ đối với tôi. Sau này, khi tìm đường vượt biên, trốn vào Sài Gòn, tôi mới nhờ một người bạn đang làm việc trong một nhà in, “cấp phát” cho tôi thẻ “công nhân xây dựng” của một công ty ma nào đó ở Vũng Tàu. Thời đó, cầm trong tay một xấp giấy in Ronéo có đóng dấu bằng củ khoai là hầu như cửa ải nào cũng lọt qua được. Huống chi tài liệu “xác minh” tôi là “công nhân xây dựng” lại là một tờ giấy in hẳn hoi được một công ty đóng dấu đàng hoàng. Đây là lúc tôi cảm thấy tự tin nhứt trong những ngày sống lang thang ở Sài Gòn và Vũng Tàu.
Nhưng những thứ giấy tờ mà tôi đã có được do cái thói quen giả mạo của người cộng sản, không phải là “căn cước” thật sự của mình, cho nên khi bước lên tàu vượt biên, tôi đã nhờ biển cả thủ tiêu hết. Đó là bước đầu trong cuộc đổi đời của tôi: tôi muốn gột rửa hết những vết tích của giả mạo, dối trá mà chế độ đã vô tình ghi khắc trên con người tôi.
Mãi cho đến khi được định cư tại Pháp, tôi mới được cấp phát cho một thẻ căn cước theo đúng nghĩa. Cho tới nay, dù có thể quăng hay đốt bất cứ tài liệu nào, tôi vẫn trân trọng cất giữ “Thẻ chứng nhận tỵ nạn” (Certificat de réfugié) do Văn phòng Bảo vệ Người Tỵ nạn và Vô Tổ quốc của Chính phủ Pháp cấp phát. Tôi không thích cái chữ “vô tổ quốc” (apatrides) được ghi trên thẻ chứng nhận tỵ nạn của tôi. Dù có bỏ nước ra đi, tôi vẫn mãi có một quê hương và tổ quốc. Bên cạnh thẻ chứng nhận tỵ nạn, tôi cũng xin được một   “Sổ thông hành” (Titre de Voyage = Travel Document) dành cho người tỵ nạn. Với hai thẻ này, chỉ một thời gian ngắn sau khi đến Pháp, tôi đã có thể đi lại hầu hết các nước Âu Châu không cộng sản. Đây là lúc tôi mới thực sự cảm nhận được thế nào là “không gì quý bằng tự do”. Và ngày nay, mang quốc tịch Úc, tôi đã có thể đi lại khắp nơi, kể cả quay trở về Việt Nam. Nhưng dù có là “công dân của thế giới” đi nữa, như người tỵ nạn nổi tiếng nhứt trên thế giới là Đức Đại Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, thường nói về mình, tôi vẫn không bao giờ có thể xóa bỏ khỏi tâm tư mình cái căn cước tỵ nạn ấy. Thẻ chứng nhận tỵ nạn và sổ thông hành dành cho người tỵ nạn được tôi cất giữ một cách trân quý là để tự nhắc nhở rằng tôi vẫn mãi mãi mang thẻ căn cước tỵ nạn trong trái tim mình. Căn cước ấy không chỉ là một vật kỷ niệm ghi dấu một bước đầu quan trọng trong cuộc đổi đời sau khi trốn thoát khỏi chế độ cộng sản. Nó vẫn mãi mãi xác định những suy nghĩ, tư cách, những cuộc chiến đấu trong bản thân tôi. Giữa một đám đông những người không cùng màu da, ngôn ngữ, văn hóa với mình, tôi càng ý thức một cách mãnh liệt rằng lý do hiện hữu của tôi ở nơi xa lạ này chính là tư cách tỵ nạn của tôi. Đi xa ngộ cố tri, gặp gỡ đồng bào và đồng hương trong những cuộc vui, trong các sinh hoạt xã hội, văn hóa, tôn giáo hay bất cứ một sinh hoạt nào, tôi cũng đều trở về với ý nghĩ: tôi sẽ không có mặt ở đây nếu tôi không phải là một người tỵ nạn.
Tỵ nạn và nhứt là tỵ nạn chính trị có nghĩa là trốn thoát khỏi một chế độ áp bức. Là người tỵ nạn cộng sản, tôi không chỉ trốn chạy khỏi một chế độ độc tài, độc ác và dã man, tôi không chỉ căm ghét những người cộng sản. Căn cước tỵ nạn cộng sản của tôi cũng đòi hỏi và nhắc nhở tôi phải không ngừng chiến đấu trong chính bản thân tôi để loại trừ tất cả những gì là tồi tệ nhứt làm nên chế độ cộng sản như thù hận, dối trá và độc ác. Bao lâu chế độ cộng sản vẫn còn tồn tại, tôi vẫn tiếp tục là một người tỵ nạn cộng sản và vẫn luôn được thúc đẩy để “chống cộng”, nghĩa là trước tiên chống lại những “cái thói cộng sản” vốn đã bám vào con người của tôi.
Là một người tỵ nạn được đón nhận làm công dân của một xứ sở mới, căn cước tỵ nạn cũng không ngừng gợi lên trong tôi một trong những tâm tình căn bản nhứt giúp tôi trưởng thành hơn trong nhân cách là lòng biết ơn. Tôi tin chắc rằng lòng biết ơn là một trong những nền móng vững chắc làm nên  Hoa Kỳ. Trong rất nhiều cuộc lễ được cử hành trong năm, quốc gia này đã dành riêng một ngày “Tạ ơn”  không chỉ để nhắc nhở về một biến cố lịch sử trong thời kỳ lập quốc, mà còn để không ngừng khơi dậy trong trái tim người dân một trong những tâm tình cao quý nhứt của con người là lòng biết ơn.
Bên cạnh những tên gọi không thể xóa bỏ được khỏi ký ức người Việt tỵ nạn như Ngày Quốc Hận, Ngày Mất Nước, Ngày Hành Trình về Tự Do... riêng tôi vẫn xem ngày 30 tháng Tư hàng năm như một Ngày Tạ Ơn. Tạ ơn cộng đồng thế giới đã biết ngồi lại với nhau để đưa ra một Công Ước nhìn nhận và bảo vệ người tỵ nạn. Tạ ơn các quốc gia đã mở cửa đón nhận người tỵ nạn và các quốc gia đã cho người tỵ nạn được đến cư trú và chọn làm quê hương thứ hai. Tạ ơn thế giới văn minh đã không chỉ giải thoát người tỵ nạn khỏi những chế độ áp bức, mà còn tạo điều kiện để họ sống xứng với phẩm giá con người.
Lòng biết ơn đích thực dĩ nhiên luôn đi kèm với sự đền ơn. Qua những thành tựu trong học vấn, nghề nghiệp và kinh doanh, người Việt tỵ nạn khắp nơi trên thế giới đã đóng góp rất nhiều cho nền kinh tế và xã hội của quốc gia đã đón nhận và cưu mang họ. Đó là cách cộng đồng người Việt tỵ nạn trả ơn cho đất nước mà họ đã chọn làm quê hương thứ hai. Rất nhiều quốc gia đã nhìn nhận và đề cao sự đóng góp của các cộng đồng người Việt tỵ nạn. Riêng tôi, tự xét mình chẳng làm nên trò trống gì để đóng góp cho quê hương thứ hai này, cho nên để bày tỏ lòng biết ơn với đất nước đã mở rộng vòng tay đón nhận mình, tôi chỉ biết tự nhủ là phải cố gắng sống như thế nào để chứng tỏ cho người lối xóm thấy rằng mình thực sự là một người tỵ nạn cộng sản, nghĩa là không mang theo mình những “thói quen và cung cách cộng sản” để không vô tình làm phiền người khác.
Xét cho cùng, cái căn cước tỵ nạn cộng sản đã được ghi khắc trong tôi chẳng khác nào dấu ấn của “Phép Rửa” trong Kitô Giáo. Đó là một thứ “Đạo” mới của tôi. Tôi không chỉ tuyên xưng “Đạo” ấy trong các cuộc biểu tình đả đảo Cộng Sản. Tôi không chỉ “rao giảng” “Đạo” ấy mỗi năm một lần vào ngày 30 tháng 4 trước tòa đại sứ Việt Cộng ở Canberra. Tôi thấy mình phải sống “Đạo” ấy qua cuộc sống hàng ngày. “Đạo” ấy đòi hỏi tôi phải tuân thủ luật pháp, sống thành thật, tôn trọng lẽ công bình, đấu tranh cho lẽ phải, thể hiện tình liên đới và bao dung như tôi đã từng được người khác đối xử một cách quảng đại.
Xin được mãi mãi mang trong người căn cước tỵ nạn ấy để cố gắng vươn lên trong sự trưởng thành nhân cách.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét