Chu Thập
12.12.18

Với hai vị này và nhiều nhà hảo tâm khác, thế giới đã chẳng bao giờ đặt vấn
đề về tấm lòng vị tha. Vậy mà với vợ chồng tỷ phú Zuckerberg, tôi không hiểu tại
sao lại có nhiều lời ra tiếng vào về động lực trao tặng của họ. Một số nhà bình
luận cho rằng khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn “Chan-Zuckerberg
Initiative” để quản lý khoản tiền họ định trao tặng, hai vợ chồng tỷ phú trẻ
này muốn tránh số thuế có thể được đánh trên số tiền thu được từ việc bán cổ phần.
Hư thực thế nào, tôi nghĩ với đòi hỏi minh bạch trong thế giới ngày nay, trước
sau gì người ta cũng sẽ biết rõ về hoạt động từ thiện của vợ chồng tỷ phú trẻ
này. Nhưng cứ như mục tiêu mà hai vợ chồng tỷ phú này đề ra trong lá thư gởi
cho con gái của họ là “thúc đẩy tiềm năng con người và cải thiện sự bình đẳng
cho tất cả trẻ em trong thế hệ tiếp theo”, thì đây quả là một chương trình đầy
tham vọng. Nói cách khác, với sự trao tặng và đóng góp của họ, hai vợ chồng tỷ
phú Zuckerberg muốn góp phần xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn cho con gái của
họ. Còn động lực nào cao quý khi trao tặng
cho bằng muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn!
Tôi không có nhiều tài sản để trao tặng hay để lại. Nhưng thỉnh thoảng, khi
“lòng từ bi chợt đến bất ngờ”, tôi cũng phải
bóp bụng mở hầu bao để chia sẻ. Mỗi lần như thế, tôi đều lùi lại một bước,
không phải để “tự chụp ảnh” (selfie) để xem mình sung sướng hay hạnh phúc cỡ
nào, mà là để phân tách xem động lực nào thúc đẩy mình trao tặng hay nói chung,
tỏ ra vị tha. Liệu tôi có thực sự vô vị lợi khi sống vị tha không? Có thể có
lòng vị tha thuần túy không? Đàng sau sự trao tặng hay những nghĩa cử biết đâu
lại chẳng có cái đuôi của sự ích kỷ. Chẻ sợi tóc làm tư, một số chuyên gia tâm
lý cho rằng ngay cả những hành động được xem là vô vị lợi nhứt thường cũng bị
thúc đẩy bởi một động lực ích kỷ.
Người nữ tu đã từng phục vụ người nghèo tại Ấn Độ và nhiều nơi trên thế giới,
được trao tặng giải Nobel Hòa Bình và được biết đến với danh hiệu “Mẹ Têrêxa
Calcutta” có lẽ là người lúc nào cũng “quên mình” để xả thân hy sinh vì những
người kém may mắn. Nhưng chắc chắn, hơn ai hết, cuộc sống vị tha của bà luôn
làm cho bà cảm thấy hài lòng và hạnh phúc. Giải thích về động lực thúc đẩy mình
làm việc thiện, bà nói: “Phép lạ không phải là công việc chúng ta làm, mà chính
là chúng ta cảm thấy hạnh phúc khi làm việc đó”.
Dường như ai cũng có một lý do “ích kỷ”, theo nghĩa nghĩ đến một “lợi ích”
nào đó của mình, khi làm việc thiện. Có rất nhiều người được quốc gia Israel
tôn vinh như những vị anh hùng và được tưởng nhớ trên điều được gọi là “Đại lộ
của những người Công Chính” nằm trong Bảo tàng viện Yad Vashem về cuộc sát tế
người Do Thái do Đức Quốc Xã chủ xướng trong thời Đệ Nhị thế chiến. Những vị
anh hùng này muốn giúp người Do Thái thoát khỏi bách hại và chết chóc. Nhưng họ
cũng làm nghĩa cử ấy chỉ vì chống lại và mong muốn cho chế độ Đức Quốc Xã của
Hitler chóng bị tiêu diệt. Ngoài ra, quan trọng hơn cả, khi ra tay cứu thoát
người Do Thái, những vị anh hùng này cũng cảm thấy phấn khởi, hài lòng và hạnh
phúc khi làm được việc thiện. Chuyên gia tâm lý và triết gia người Anh Neel
Burton cho rằng “mọi hành động vị tha đều vị kỷ”. Theo ông, bất cứ hành động vị
tha nào, nếu không làm giảm bớt sự căng thẳng, nỗi lo lắng, thì ít nhứt cũng
mang lại niềm tự hào và sự thỏa mãn. Đó là chưa kể đến niềm vinh dự hay sự đáp
trả của người khác mà những hành động vị tha có thể mang lại.
Dưới khía cạnh tôn giáo, hành động vị tha lại càng mang tính vị kỷ hơn.
Chúa Giêsu có nói một câu được nhà tư tưởng đầu tiên và lỗi lạc nhứt của Kitô giáo là thánh Phaolô ghi lại: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”. Hiến tặng,
trao ban, chia sẻ hay làm bất cứ hành động vị tha nào cũng đều mang lại hạnh phúc cho con người. Chúa Giêsu còn hứa hẹn với các môn đệ
của Ngài rằng việc hiến thân hy sinh của họ sẽ mang lại cho họ một phần thưởng
lớn lao ngay từ cuộc sống tại thế này.
Tôi không rành về giáo lý Phật Giáo. Nhưng đến Thái Lan, một trong những quốc
gia có đa số dân theo Phật Giáo, tôi hiểu được động lực khiến cho người dân nước
này sống lịch sự, hiền hòa, tử tế, quảng đại và vị tha: họ muốn gieo cái “nhân”
của nhân ái để gặt cái “quả” của phúc đức. Có lẽ cũng trong ý nghĩa ấy mà ông
bà tổ tiên chúng ta thường ăn ngay ở lành và làm việc thiện để gọi là “để đức lại
cho con cháu”.
Tôi chưa từng đến Miến Điện, một trong những nước cũng có đa số dân theo Phật
Giáo tại Á Châu. Nhưng tôi không ngạc nhiên tại sao năm nay viện thăm dò Gallup
và Sáng hội “Charites Aid Foundation” lại xếp Miến Điện đứng đầu thế giới
trong danh sách 10 quốc gia hiến tặng
nhiều tiền nhứt cho các hoạt động từ thiện và thiện nguyện. Theo chỉ số “The world
giving index 2015” (chỉ số hiến tặng),
người dân Miến Điện dẫn đầu trong việc quyên góp và làm từ thiện trong năm
2015.
Thật ra, không chỉ có các phật tử Thái Lan và Miến Điện mới tỏ ra nhân ái
và từ bi. Lâu lắm rồi, tôi nhớ có một vị giám mục Việt Nam đã không tiếc lời để
ca ngợi lòng quảng đại của các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Xét cho cùng, có tôn
giáo nào mà không xem từ bi, bác ái như cốt lõi của mình. Và nếu có khuyên dạy
con người ăn ngay ở lành và làm việc thiện là bởi tôn giáo nào cũng hướng con
người đến cuộc sống mai hậu. Niết Bàn, Thiên Đàng, Nơi Cực Lạc hay cuộc sống
vĩnh hằng...vẫn là phần thưởng của cuộc sống vị tha mà tôn giáo nào cũng hứa hẹn
cho các tín đồ. Nhưng ngoại trừ “72 trinh nữ” được hứa hẹn cho những tên khủng
bố ôm bom tự sát để giết hại người khác, cuộc sống vĩnh hằng ấy như thế nào thì
chẳng có ai từ bên kia thế giới về để kể lại cho tôi nghe cả. Vậy mà suốt cuộc
đời, một người có tôn giáo như tôi lúc nào cũng hướng về cõi vĩnh hằng ấy.
Người dân Sydney có lẽ khó quên được cảnh đốt pháo bông ở cầu Sydney
Harbour để đánh dấu năm mới 2000. Mấy chữ “Eternity” (cõi vĩnh hằng) đã chiếu sáng cầu Sydney Harbour. Giây phút ấy cũng được lập
lại trong nghi thức khai mạc Thế Vận Hội Sydney 2000 và được hằng tỷ người trên
khắp thế giới theo dõi.
Có lẽ ít có người biết rằng mấy chữ “Eternity” được chiếu sáng trong hai biến
cố quan trọng ấy trong năm 2000 lại là “công trình” của một người thất học tên
là Arthur Malcolm Stace (1885-1967). Arthur
chào đời tại Redfern, nội thành Sydney. Cả cha lẫn mẹ của Arthur đều là những
người nghiện ngập. Lớn lên trong cảnh nghèo nàn, để sống còn Arthur chỉ biết đi
ăn cắp bánh mì và sữa cũng như lục lạo các thùng rác. Năm 12 tuổi, vì chưa một
ngày được cắp sách đến trường, Arthur đã phải đi làm việc trong một mỏ than. Chỉ
trong một thời gian ngắn, người thiếu niên cũng rơi vào nghiện ngập như cha mẹ
mình và năm 15 tuổi đã phải vào tù. Vài năm sau, khi ra tù, Arthur làm nghề “hướng
dẫn viên” cho các nhà thổ. Mãi đến năm 32 tuổi, anh mới nhập ngũ. Cuộc sống
gian khổ trong quân đội, cộng với nghiện ngập, đã khiến cho anh mang đủ thứ bệnh
và được giải ngũ.
Một buổi tối năm 1930, sau khi nghe một bài giảng của một vị mục sư về cuộc
sống vĩnh cửu, Arthur bị đánh động đến độ đã xin gia nhập Kitô giáo. Về sau Arthur kể lại: “(tiếng) Eternity vang dội trong óc não tôi.
Bất thần tôi khóc và cảm thấy có tiếng
Chúa gọi tôi phải viết “Eternity”. Mặc dù không biết đọc biết viết, ngay cả đọc
và viết tên Arthur của mình, tự nhiên anh lại thấy chữ “Eternity” với nét viết
kiểu cách hiện ra; và ông có thể viết y như vậy. Liền sau đó, trong 35 năm liền,
từ sáng tinh mơ, Arthur đã đi rảo khắp thành phố Sydney và dùng phấn để viết những
chữ “Eternity” tuyệt đẹp bất cứ nơi nào có thể viết được, trên các con đường
dành cho bộ hành cũng như tại các trạm xe lửa. Trong 35 năm, theo ước tính,
Arthur đã viết chữ “Eternity” đến 500.000 lần. Huyền thoại về “người viết
Eternity” bắt đầu được quảng bá khắp thành phố Sydney. Người ta có thể đọc được
chữ ấy, nhưng không biết tác giả là ai trong một thời gian rất lâu.
Hiện nay, ở Sydney, chữ “Eternity” duy nhứt do chính tay Arthur viết vẫn
còn được giữ nguyên trên đồng hồ của Nhà Bưu Điện chính. Chữ “Eternity” do Arthur
viết trong 35 năm liền không những đã trở thành bất tử, mà có lẽ chính tác giả
cũng đã đi vào cõi vĩnh hằng. Thật ra, đâu cần phải qua ngưỡng cửa của sự chết,
mà ngay từ cuộc sống tại thế này người viết chữ “Eternity” cũng đã cảm nếm được
và đã đi vào cõi vĩnh hằng.
Đó là ý nghĩ đã đến với tôi khi đọc lại câu chuyện về “người viết
Eternity”. Liên kết với những chuyện quanh ta, tôi chợt nghĩ đến những người
anh hùng trong cuộc thảm sát mới đây tại quận San Bernadino, Hoa Kỳ, đặc biệt
là người đàn ông tên là Shannon Johnson được người phụ nữ đồng nghiệp Denise
Peraza mô tả như “một người đàn ông kỳ diệu, vô vị lợi”. Bị kẹt trong làn đạn,
anh đã đưa tay ôm lấy người phụ nữ để che chở cho cô. Anh đã bị bắn chết khi
làm bia đỡ đạn cho người phụ nữ. Với tôi, hành động này đã biến anh thành một
người bất tử. Anh đã thực sự đi vào cõi vĩnh hằng ngay từ giây phút anh dám hy
sinh mạng sống để bảo vệ người khác.
Là người có tôn giáo, tôi tin có cuộc sống vĩnh hằng. Nhưng trong khi chờ đợi
để đi vào cuộc sống vĩnh hằng ấy thì ngay trong cuộc sống trần thế này, tôi
không ngừng tự nhủ phải tìm kiếm và cảm nếm thực tại vĩnh hằng ấy. Có nhiều
cách để đi vào cuộc sống vĩnh hằng ấy, nhưng với tôi, niềm vui và hạnh phúc đến
từ bất cứ một hành động vị tha nào cũng cho tôi nếm được thực tại vĩnh hằng. Bởi
lẽ xét cho cùng, mọi thứ, kể cả tổ chức tôn giáo, niềm tin tôn giáo mà tôi
tuyên xưng...tất cả đều tương đối và rồi cũng sẽ qua đi. Duy chỉ có những điều
tốt đẹp mà chúng ta làm cho nhau mới vĩnh viễn tồn tại và làm cho con người bất
tử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét