18.12.15

Mới đây, Tổng thống Gambia, ông
Yahya Jammed đã tuyên bố rằng kể từ nay nước ông là “một Quốc gia Hồi giáo”,
nhưng nhấn mạnh rằng quyền của cộng đồng thiểu số Kitô giáo vẫn được tôn trọng và các phụ nữ không bị bắt buộc
phải phục sức theo luật Hồi giáo.
Là một cựu thuộc địa của Anh Quốc nằm ở miền Tây Phi Châu, giáp giới với một
số quốc gia như Senegal và Guinea-Bissau, Gambia là một nước nghèo nhưng nổi tiếng
với những bãi biển cát trắng. 90 phần trăm của dân số khoảng 2 triệu người theo
Hồi giáo và đa số người Hồi giáo tại Gambia theo hệ phái Sunni. Tại nước này hiện
cũng có một cộng đồng Hồi giáo thuộc hệ phái Shiite, phần lớn đến từ Liban hoặc
là di dân nói tiếng Á Rập trong vùng. Cộng đồng Kitô giáo tại Gambia chỉ chiếm khoảng 8 phần trăm, phần lớn
theo Công giáo.
Tổng thống Jammeh, năm nay 50 tuổi, vốn là sĩ quan và cựu võ sĩ đô vật xuất
thân từ một vùng quê. Ông đã cai trị Gambia với bàn tay sắt kể từ khi lên nắm
chính quyền sau một cuộc đảo chính năm 1994. Trong hơn 20 năm qua, ông đã không
biết bao nhiêu lần thay đổi hội đồng nội các và chỉ giữ lại một số tay chân
thân tín. Trước mặt dân chúng Gambia, ông luôn chứng tỏ mình là một tín đồ Hồi
giáo nhiệt thành, lúc nào trên tay cũng có quyển kinh Coran hay tràng chuỗi. Ông
cũng không ngừng đổ lỗi cho chế độ thực dân về những tệ nạn của đất nước. Dạo
tháng 3 năm 2014, ông tuyên bố sẽ dẹp bỏ Anh ngữ như ngôn ngữ chính, nhưng
không xác định ngôn ngữ địa phương nào sẽ thay thế Anh ngữ.
Việc Tổng thống Jammeh quyết định biến Gambia thành một “Quốc
gia Hồi giáo” đã gặp chống đối mãnh liệt của phe đối lập. Họ nói rằng quyết định
này không có nền tảng pháp lý. Theo phe đối lập, lời tuyên bố của ông Jammeh là
một hành động vi hiến. Ông Ousainou Darboe, Tổng bí thư của
Đảng Dân chủ Thống nhất nói rằng cứ mỗi lần muốn đánh lừa dư luận về những gì
đang xảy ra trong đất nước, ông Jammed lại quay ra tấn công chế độ thực dân.
Mới đây, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền “Human Righs Watch” đã gọi Chế độ Jammed tại Gambia là một trong những chế độ áp bức
nhất trên thế giới. Tổ chức này lên án các đơn vị bán quân sự và mật vụ được
chính phủ sử dụng để thực hiện những vụ tra tấn, thủ tiêu và giết người bên
ngoài tòa án.
Năm 2013, Tổng thống Jammed đã rút Gambia ra khỏi Khối Thịnh Vượng
Anh “Commonwealth”. Ông cho rằng tổ chức này là một nối dài của chế độ thực
dân.
Gambia là một vùng đất được lần đầu tiên nhắc đến trong các ký sự của các
lái buôn Á Rập vào Thế kỷ thứ 9. Vào thời kỳ này, các lái buôn Hồi giáo và
các học giả đã thiết lập các cộng đồng tại nhiều trung tâm thương mại ở miền
Tây Phi Châu. Con đường di chuyển nô lệ, vàng bạc và ngà voi xuyên qua sa mạc
Sahara cũng được thiết lập. Vào khoảng Thế kỷ 11 hay
12, các lãnh chúa cai trị vùng này cải đạo sang Hồi giáo và chỉ bổ nhiệm làm cận
thần những người Hồi giáo nào thông thạo tiếng Á rập. Vào đầu Thế kỷ 14, phần lớn lãnh thổ ngày nay có tên là Gambia là
một phần của Đế quốc Mali. Đặt chân đến đây vào giữa Thế kỷ 15, người Bồ Đào Nha bắt đầu kiểm soát thương mại bằng
đường biển.
Năm 1588, Bồ Đào Nha bán quyền kiểm soát Sông Gambia cho các thương lái người Anh. Cuối Thế kỷ 17 và xuyên suốt Thế kỷ 18, hai đế quốc hùng mạnh nhất là Anh và Pháp không ngừng tranh nhau về quyền bá chủ trong
những vùng dọc theo hai con sông Senegal và Gambia. Nhưng năm 1783, Thỏa ước
Versailles đã nhìn nhận quyền sở hữu của Anh Quốc đối với sông Gambia. Pháp chỉ
còn giữ lại một phần nhỏ ở phía Bắc của dòng
sông và năm 1856 lại giao trọn quyền kiểm soát vùng này cho Anh.
Trong 3 thế kỷ liền kể từ khi người da trắng đặt chân đến vùng này, đã có
ít nhất 3 triệu người nô lệ da đen đã bị bắt đi khỏi vùng này. Một số bị chính
người Phi Châu săn bắt và bán cho người Âu Châu. Một số khác bị bắt làm tù binh
trong những cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc. Một số bị bắt đem đi bán vì không
thể trả nợ.
Lúc đầu, những kẻ buôn người bán dân nô lệ
sang Âu Châu để làm “đầy tớ” cho người giàu. Về sau do đòi hỏi của thị trường
lao động, người nô lệ được mang sang Bắc Mỹ. Năm 1807, Vương quốc Anh bãi bỏ việc buôn bán nô lệ trên toàn Đế quốc.
Trong những năm sau đó, Gambia được đặt dưới quyền cai quản của Tổng toàn quyền Anh tại Sierra Leone. Đến năm 1888, Gambia
mới trở thành một thuộc địa riêng của Anh.
Gambia được Anh Quốc trao trả độc lập ngày 18 tháng 2 năm 1965. Và
cũng như Úc Đại Lợi, Gambia tiếp tục là
thành viên của khối Thịnh Vượng Chung, xem nữ hoàng Elizabeth II như Nữ hoàng Gambia. Không bao lâu sau đó, Chính phủ Gambia đã cho tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về
việc thành lập cộng hòa. Nhưng cuộc trưng cầu dân ý đã thất bại: 2 phần 3 dân chúng
vẫn không muốn thay đổi hiến pháp và vẫn yêu cầu được ở lại trong khối Thịnh Vượng
Chung. Dù vậy, với cuộc trưng cầu dân ý này, Gambia đã được thế giới chú ý tới
vì đã tổ chức được một cuộc đầu phiếu kín, minh bạch cũng như tôn trọng các quyền
tự do dân sự.
Nhưng vào tháng Tư năm 1970, tiếp theo một cuộc trưng cầu dân ý lần thứ
hai, Gambia đã tuyên bố trở thành một nước cộng hòa, tuy nhiên vẫn xin được tiếp
tục làm thành viên của khối Thịnh Vượng Chung. Thủ tướng lúc bấy giờ là Sir
Dawda Kairaba Jawara trở thành tổng thống đầu tiên của Gambia. Ông đã liên tục
tái cử 5 lần. Năm 1981, vì kinh tế yếu
kém và nhất là vì tham nhũng, quân đội đã làm một cuộc đảo chính. Cuộc đảo
chính do Hội đồng Cách mạng Quốc gia gồm hai Đảng Xã hội và Lao động thực hiện
đã diễn ra vào giữa lúc Tổng thống Jawara đang thăm viếng Anh Quốc. Do yêu cầu của
Tổng thống Jawara, nước láng giềng Senegal đã gởi quân đội
sang để dẹp tan quân nổi loạn. Đã có từ 500 đến 800 người bị giết chết trong
các cuộc bạo động.
Năm 1982, hai nước Senegal và Gambia đã ký một thỏa ước tiến tới thành lập
một liên bang để thống nhất quân đội cũng như kinh tế và tiền tệ. Nhưng 7 năm
sau, Gambia đã rút ra khỏi liên bang.
Năm 1994, một trung úy tên là Yahya Jammeh đã tổ chức một cuộc đảo chính.
Chính phủ Jawara từ chức. Mọi lực lượng đối lập bị cấm hoạt động. Là chủ tịch của
Hội đồng Quân nhân, Trung úy Jammeh trở thành nguyên thủ quốc gia và cai trị
quốc gia với bàn tay sắt cho đến ngày nay.
Cuối năm 2001 và đầu năm 2002, ông cho tổ chức các cuộc bầu cử các cấp từ tổng
thống, quốc hội đến các chính quyền địa phương. Mặc dù không phải là hoàn hảo,
nhưng các cuộc bầu cử đã được các quan sát viên ngoại quốc đánh giá là tự do và
minh bạch. Đảng cầm quyền của ông Jammeh vẫn chiếm đa số ghế trong Quốc hội và
như vậy bảo đảm chế độ độc tài của ông Jammeh cho đến ngày nay.
Ngày 2 tháng 10 năm 2013, Bộ trưởng Nội vụ Gambia loan báo rằng Gambia quyết định ra khỏi khối
Thịnh Vượng Chung, sau 48 năm là thành viên của khối. Chính phủ Gambia giải
thích rằng Gambia sẽ không giờ là thành viên của bất cứ một tổ chức “tân thực dân” nào nữa cũng như sẽ không bao giờ tham gia
vào bất cứ một tổ chức nào nối dài chủ nghĩa thực dân.
Là một trong những nước nhỏ nhất của lục địa Phi Châu, sau khi được Anh Quốc
trao trả độc lập, Gambia có được ổn định chính trị tương đối lâu so với các nước
láng giềng tại miền Tây Phi Châu. Tuy nhiên ổn định không đương nhiên đồng
nghĩa với phồn thịnh. Mặc dù được sông Gambia chảy xuyên qua, chỉ có một phần
sáu đất đai của Gambia được canh tác. Phần còn lại khô cằn cho nên chỉ có được
một mùa gieo trồng mỗi năm. Nông sản chính của Gambia là đậu phụng. Đây là nguồn
thu nhập chính của nước này. Nhưng việc sản xuất và giá cả trên thị trường lại
lên xuống bất thường cho nên thu nhập từ đậu phụng cũng bấp bênh. Do đó, Gambia
sống lệ thuộc rất nhiều vào ngoại viện. Từ năm 2006 đến năm 2012, kinh tế
Gambia tăng trưởng mỗi năm từ 5 đến 6 phần trăm.
Về giáo dục, hiến pháp Gambia đòi hỏi phải có giáo dục cưỡng bách và miễn
phí ở bậc tiểu học. Tuy nhiên, vì thiếu tài nguyên và hạ tầng cơ sở, việc thực
hiện nền giáo dục cưỡng bách và miễn phí ở bậc tiểu học tại Gambia không thành
công. Năm 1995, tỷ lệ trẻ em ghi danh ở bậc tiểu học chỉ được 77 phần trăm. Một
trong những lý do khiến nhiều trẻ em Gambia không được cấp sách đến trường là học
phí. Năm 1998, Tổng thống Jammeh ra lệnh bãi bỏ việc thu học phí ở bậc tiểu
học.
Tình trạng y tế tại Gambia cũng không mấy sáng sủa. Y phí trong các bệnh viện
công chỉ chiếm có 1.8 phần trăm tổng sản lượng quốc gia. Trong khi đó phí tổn tại
các bệnh viện tư lại cao gần gấp 5 lần. Tính cho đến
đầu thiên niên kỷ mới, trung bình 100 ngàn dân mới có 11 bác sĩ. Tuổi thọ của
người dân Gambia không quá 60.
Ngoài ra, Gambia hiện đang phải đối đầu với một tệ nạn gắn liền với việc thực
hành tôn giáo. Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO), vẫn còn khoảng gần 80 phần trăm trẻ em gái và phụ nữ Gambia phải chịu
cắt âm vật. Năm 2010, tỷ lệ phụ nữ chết khi sinh con vẫn còn cao: trung bình cứ
100 ngàn lần sinh nở có đến 400 người chết. Tử xuất của trẻ con dưới 5 tuổi vẫn
còn cao. Ở Gambia, chỉ
có 5 nữ hộ sinh cho 1000 thai phụ và nguy cơ chết khi
mang thai cũng rất cao.
Nhưng nhìn chung, dưới chế độ của Tổng thống Jammeh, nền y tế công cộng của
Gambia đã được cải thiện. Quốc gia này đã làm được nhiều bước đáng kể trong việc
chủng ngừa cho một số bệnh như đau màng óc, đậu mùa v.v
Cai trị với bàn tay sắt cho nên Tổng thống Jammeh không chấp nhận tự do
ngôn luận. Năm 2002, chính phủ đã thông qua một đạo luật để qua đó thành lập một
ủy ban với quyền hạn được cấp phát giấy phép hành nghề ký giả cũng như giam tù
các ký giả. Hai năm sau, chính phủ lại ban hành thêm một sắc luật khác cho phép
giam tù bất cứ ký giả nào mạ lỵ hoặc dèm pha chính phủ. Với sắc luật này, chính
phủ cũng có thể rút lại giấy phép in ấn và hoạt động phát thanh truyền hình. Sắc
luật này cũng buộc các cơ quan truyền thông phải tái đăng ký với phí tổn cao gấp
5 lần phí tổn ban đầu.
Mới đây, sau một cuộc đảo chính bất thành, đã có 3 ký giả bị giam tù vì lên
tiếng phê bình chính sách kinh tế của chính phủ.
Tổ chức “Các ký giả không biên giới”
đã tố cáo tổng thống Jammeh đang biến Gambia thành một nhà nước công an
trị vì sử dụng đủ mọi cách xách nhiễu đối với các ký giả kể cả đe dọa giết chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét