Chu Thập
13.12.11

Tôi có ý nghĩ như thế về lễ Giáng Sinh
khi đọc một bài báo của ký giả Ross Gittins trên báo The Sydney Morning Herald
trong số ra ngày 7 tháng 12 vừa qua. Trong bài báo, ký giả Gittins nhắc đến tiến
sĩ Michael Schluter, sáng lập viên của Sáng Hội “Relationships Foundation” tại
Anh quốc. Tiến sĩ Schluter nói rằng con người thiết yếu là những “con vật xã hội”,
do đó điều quan trọng nhứt trong cuộc sống chúng ta chính là quan hệ với người
khác như bạn bè, láng giềng, đồng nghiệp và nhứt là những người thân trong gia
đình.
Theo ký giả Gittins, cho dẫu chúng ta có
tránh nói đến họ trong nhiều năm đi nữa, ngay cả khi họ đã qua đời, chúng ta
không thể không nghĩ đến họ. Nếu chúng ta có cắt đứt liên lạc với gia đình, thì
chúng ta cũng vẫn tìm cách lấp đầy chỗ trống ấy bằng những quan hệ khác. Liệu
chúng ta có thể sống còn nếu không có quan hệ với người khác không?
Sự thành công trong cuộc sống thiết yếu
được đo lường không phải bằng tiền của, quyền lực, danh vọng và tiếng tăm, mà bằng
các mối quan hệ của con người với người khác. Ngày nay, ngoài chỉ số thông minh
IQ (Intelligence Quotient), các chuyên gia tâm lý còn nói đến một thứ thông
minh khác gọi là EQ (Emotional Quotient), tức chỉ số tình cảm giúp con người
thiết lập những quan hệ tốt đẹp với người khác và nhờ đó đạt được thành công
cũng như tạo được hài hòa với người xung quanh và mang lại an bình cho chính bản
thân. Có chỉ số thông minh cao chưa hẳn đã mang lại thành công và hạnh phúc cho
con người. Trường đời cho chúng ta thấy có biết bao nhiêu người thông minh xuất
chúng, nếu không thất bại trong giao tế thì cũng chẳng nắm giữ được vai trò
lãnh đạo nào trong xã hội. Trái lại, có những người, tuy không phải là học sinh
xuất sắc hoặc có khi phải dở dang trong việc học hành, lại trở thành những nhà
lãnh đạo tài ba. Không thiếu những chuyên gia lỗi lạc trong phòng thí nghiệm,
trên bục giảng, trong lãnh vực nghiên cứu hoặc ngay trong quản lý...lại là những
người chồng, người cha “tồi” trong gia đình hay những người cô đơn vì không có
bạn bè.
Dĩ nhiên, cô đơn là phần số chung của mọi
người trên trái đất này. Chẳng có ai, trong một lúc nào đó trong cuộc sống, lại
không từng trải qua những lúc trống trải và cô đơn. Có khác chăng là có người chỉ
biết ngồi đó mà bắt chước Tuấn Vũ để ca bài “đời
tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn”, trái lại cũng có người biết cố gắng ra
khỏi bản thân để tìm đến với người khác và nhận ra rằng cô đơn không phải là một
định mệnh bất di dịch, mà là một thách đố để vươn tới người khác và nhờ đó tìm
được ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc sống.
Ý tưởng trên đây mang lại cho tôi nhiều
khích lệ và an ủi. Tôi không phải là người có IQ cao để đỗ đạt trong học vấn và
trở thành bác sĩ, luật sư. Nhưng tôi tin chắc rằng “cảm xúc” vốn là điều tôi có
thể tập luyện để làm chủ được và như vậy có thể phát triển để có một EQ cao hơn
hầu cải thiện các quan hệ của tôi với người khác. Và một khi tôi đã có thể xây
dựng được các quan hệ tốt đẹp và hài hòa với người xung quanh, thì đương nhiên phần
thưởng dành cho tôi sẽ chỉ có thể là niềm hạnh phúc và an bình mà thôi.
Trong hầu hết các ngày chúa nhựt trong
năm và đặc biệt trong Lễ Giáng Sinh, tôi thường cùng với mọi người hiện diện đọc
hay hát lên lời ca của các thiên sứ trong Đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện
tâm”. Là một tín hữu Kitô, tôi tin rằng Thiên Chúa ban “bình an” cho tất cả
mọi người, nhưng chỉ có những ai có “thiện tâm”, người đó mới cảm nhận được
bình an mà thôi. Bình an quả là quà tặng thiết yếu của Lễ Giáng Sinh. Có được mọi
sự mà không có bình an thì coi như chưa thực sự mừng Lễ Giáng Sinh.
Tôi nhận thấy trong các cánh thiệp và lời
cầu chúc Giáng Sinh trong hầu hết các ngôn ngữ Tây phương, dường như người ta
nghĩ đến “vui chơi” hơn là bình an. Từ “Merry Christmas” trong Anh ngữ đến
“Joyeux Noel” trong tiếng Pháp, lời cầu chúc nhấn mạnh đến niềm vui hơn là bình
an. Mùa Giáng Sinh, cứ đi rảo một vòng các siêu thị hay xem các màn quảng cáo
trên truyền hình, chúng ta chỉ nghe thấy những mời mọc hưởng thụ. Dĩ nhiên, niềm
vui luôn đa dạng. Nhưng ngày nay, đa số những niềm vui được quảng cáo trong các
siêu thị hay trên màn ảnh truyền hình thường chỉ là những niềm vui nếu không
chóng qua thì cũng giả tạo: vui vì có nhiều hàng hóa hạ giá để mua sắm, vui vì nhận
được nhiều quà, vui vì được ăn uống nghỉ ngơi, vui vì những buổi tiệc tùng thâu
đêm suốt sáng...
Vui là điều chính đáng trong cuộc sống.
Một cuộc sống chỉ đáng sống khi mang lại niềm vui cho con người. Một tôn giáo
chỉ rao giảng sự buồn thảm là một tôn giáo “đáng buồn”. Nhưng vui thì cũng có
36 vạn niềm vui khác nhau. Có những niềm vui bồi bổ và làm cho con người được
thêm phong phú. Trái lại cũng có những niềm vui chỉ tạo ra sự trống rỗng trong
tâm hồn con người. Điều được gọi là “hội chứng của ngày thứ hai” luôn nhắc nhở
chúng ta về vô số những niềm vui giả tạo trong cuộc sống.
Giáng Sinh chỉ thực sự là một Mùa Lễ Vui
bởi vì mang lại an bình cho con người. Đây chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu mang
đến cho nhân loại. Ngài không ngừng rao giảng sự bình an và hứa ban sự bình an
cho các môn đệ của Ngài. Tuy nhiên, bình an thì cũng có nhiều thứ bình an. Bình
an trong men rượu, ma túy hay nhục dục chắc chắn không phải là thứ bình an mà
Chúa Giêsu mang đến. Ngay cả sự bình an được thiết lập bằng lò thuốc súng và được
duy trì bằng dùi cui, báng súng hay nhà tù cũng không phải là thứ bình an mà
Chúa Giêsu muốn nói đến. Ngài đã có lần nói với các môn đệ rằng Ngài không đến
để mang lại bình an, mà là gươm giáo và chiến tranh. Với những hình tượng ấy,
Con Người suốt một đời chỉ biết yêu thương và tha thứ và tha thứ cho đến cùng
như Chúa Giêsu chỉ muốn nói rằng thứ bình an mà Ngài ban tặng chính là thành quả
của một cuộc chiến đấu cam go. Cuộc chiến ấy không diễn ra ở đâu xa mà ngay
chính trong tâm hồn con người. Chỉ khi nào chiến thắng được các sức mạnh của
tăm tối và sự dữ trong tâm hồn, con người mới thực sự có bình an. Đây chính là
sự “thiện tâm” mà trong bài ca Giáng Sinh, các thiên sứ đã xem như một điều kiện
của bình an: “Bình an dưới thế cho người
thiện tâm”. Chỉ có ai chiến thắng được bản thân, người đó mới có được sự
bình an đích thực trong tâm hồn.
Về điểm này, tôi rất tâm đắc với bài viết
có tựa đề “Thông điệp mùa Giáng Sinh: Bỏ
mác lê xuống là thành phật” của nhà văn, thi sĩ Trần Mạnh Hảo trong nước,
được đăng trên báo mạng Đàn Chim Việt số ra ngày 10 tháng 12 vừa qua. Trước
Chúa Giêsu 600 năm, Đức Phật dạy rằng chỉ cần bỏ gươm giáo xuống là thành phật.
Lập lại lời Đức Phật dạy, tác giả Trần Mạnh Hảo viết rằng chỉ cần “bỏ mác lê xuống là thành phật”. Ông muốn
nhắn gởi lời Phật dạy trước tiên đến các môn đệ của hai ông tổ “Mác Lê”. “Mác”
là giáo mác. “Lê” là lưỡi lê. Đây là hai thứ dụng cụ tiêu biểu của hận thù, chiến
tranh và chết chóc. “Mác Lê” cũng là tên gọi quen thuộc của người Việt nam dành
cho hai ông Karl Marx và Lenin. Chủ nghĩa Mác Lê hay cộng sản là chủ nghĩa rao
giảng hận thù và đấu tranh giai cấp.
Nhân Mùa Giáng Sinh mà ngày nay chế độ vô thần Việt nam cũng “vui vẻ” cử
hành như mọi người trên khắp thế giới, nhắn gởi với những người cộng sản Việt
nam là những người vẫn còn bám vào cái thây chết của chủ nghĩa “Mác Lê”, nhà
văn Trần Mạnh Hảo kêu gọi hãy từ bỏ “Mác Lê”, nghĩa là hãy buông bỏ gươm giáo của
hận thù trong lòng để thực sự trở về với dân tộc.
Tác giả kết thúc bài viết: “Các thiên sứ vẫn hát và nói trong nhạc mừng
Noel rằng: hỡi các đồng chí Caesar Việt nam, hãy bỏ các vũ khí của bạo lực cách
mạng là mác, lê, búa liềm xuống, để nhận lấy tinh thần từ bi của Phật, nhận lấy
tình thương yêu bác ái Thiên Chúa, lấy phúc của muôn dân làm phúc của mình, các
vị còn có cơ may thành phật, thành thánh...Amen.” (Trần Mạnh Hảo, Thông điệp
mùa Giáng Sinh: Bỏ mác lê xuống là thành phật, Đàn chim việt info 10/12/2011)
Tôi không phải là một tín đồ Phật Giáo.
Tôi không ăn chay trường. Tôi không cúng giường. Tôi vẫn còn nặng tham sân si.
Nhưng nói như nhà văn Dương thu Hương, tôi là “một phật tử theo cách thế riêng của tôi”.Trong cuộc sống, tôi luôn
cảm nhận được lời dạy của Đức Phật: “Bỏ
gươm xuống là thành phật”. Tôi chưa hiểu được “phật tánh” là gì. Tôi cũng
chưa một lần thấy được hào quang “thánh thiện” trên đầu mình. Nhưng tôi biết chắc
một điều là sau mỗi lần chiều theo cơn giận của mình để tấn công, xúc phạm, miệt
thị hay khước từ người khác, nhìn vào trong gương tôi thấy khuôn mặt của mình
như thể có dấu ấn của Quỉ Sứ. Bất cứ một mối quan hệ nào bị cắt đứt cũng đều để
lại một vết sẹo trong tâm hồn tôi. Bất cứ một tình nghĩa nào bị sứt mẻ cũng đều
làm cho tâm hồn tôi bị giao động. Làm sao tôi có thể có được bình an khi tôi co
cụm và tự giam hãm trong tù ngục của bản thân?
Hòa bình vẫn mãi mãi là một vấn đề lớn của
nhân loại, bởi lẽ chiến tranh lúc nào cũng rình rập thế giới. Sau hai cuộc đại chiến
rồi chiến tranh lạnh, thế giới vẫn tiếp tục sôi sục vì hận thù và đố kỵ. Tại
sao nhân loại không bao giờ thực sự hưởng được hòa bình?
U Thant là một người Miến Điện rất nổi
tiếng trong thập niên 60 của thế kỷ trước. Ông đã từng giữ chức Tổng thư ký Liên
Hiệp Quốc. Năm 1965, trong một hội nghị qui tụ 67 học giả và nguyên thủ quốc
gia của 19 nước trên thế giới để thảo luận về những điều kiện để xây dựng hòa
bình thế giới, ông U Thant đã nêu lên những câu hỏi như sau: “Tại sao với tất cả những kỹ năng và kiến thức
đang có, chúng ta vẫn còn sống mãi trong thung lũng tối tăm của bất hòa và thù
nghịch? Điều gì khiến chúng ta không thể
cùng nhau tiến tới để hưởng hoa trái của những nỗ lực của chúng ta và gặt hái
những thành quả từ kinh nghiệm của chúng ta?
Tại sao với tất cả những lý tưởng luôn được đề cao, với tất cả những niềm
hy vọng và kỹ năng chúng ta đang có, hòa bình trên trái đất vẫn còn là một đối
tượng xa vời chỉ được nhìn thấy một cách mờ nhạt xuyên qua giông bão và xáo trộn
của những khó khăn hiện tại?”
Có lẽ cứ mỗi độ Giáng Sinh về, các thiên
sứ lại phải gào thét lên câu trả lời: “Bình
an dưới thế cho người thiện tâm”. Nếu thế giới không bao giờ hưởng được hòa
bình là bởi còn có vô số những người chưa chịu “bỏ gươm để thành phật” hay chưa có được cái tâm an bình nhờ biết
xây dựng những quan hệ hài hòa với người khác.
Hòa bình thế giới quả là chuyện đại sự.
Nhưng tôi tin rằng, dù chỉ là một giọt nước mưa rót vào đại dương, những cố gắng
“bỏ gươm để thành phật” hằng ngày của
tôi trong quan hệ với những người thân trong gia đình, với những người láng giềng,
với bạn bè quen biết, với bất cứ người nào tôi gặp gỡ, cũng không phải là vô
ích.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét