Chu Thập
7.12.11
Tháng 12 mỗi năm, tôi có nhiều Lễ Giáng
Sinh để mừng.

Lễ Giáng Sinh thứ hai mà năm nào tôi
cũng mừng là buổi tiệc trong khu xóm của tôi.Tôi không biết có bao nhiêu người
theo Kitô giáo, nhưng năm nào mọi cư dân trong cái xóm nhỏ của tôi cũng đều gặp
nhau trong một bữa tiệc đơn sơ mà thực đơn gồm các món do mỗi người tự đóng
góp. Mục đích chính không phải là ăn uống, mà là để ít nhứt mỗi năm một lần, mọi
người trong xóm “nhận diện” nhau và cố gắng nhớ tên nhau để khỏi lấy râu ông nọ
cắm cằm bà kia. Chính nhờ mấy cái lễ Giáng Sinh này mà tôi đã thuộc được tên của
hầu hết mọi cư dân trong khu xóm. Ra ngõ, được ai đó gọi đúng tên và nhứt là
chính mình gọi được tên của ai đó cũng đã là một món quà Giáng Sinh lớn đối với
tôi.
Kế đó, không thể thiếu sót được là Lễ
Giáng Sinh trong gia đình tôi. Trong năm, thỉnh thoảng cũng có những cuộc gặp gỡ
trong hàng quán hay trao đổi với nhau trên điện thoại. Nhưng “hơi ấm” của tình
gia đình chỉ thực sự có trong Ngày Giáng Sinh mà thôi. Lễ Giáng Sinh thiết yếu
vẫn là lễ của Gia đình.
Nhưng với riêng tôi là một tín hữu Kitô,
thì lễ Giáng Sinh quan trọng nhứt vẫn là Lễ “Christmas”, tức “Lễ của Chúa Kitô”
được cử hành như một nghi thức tôn giáo. Không có lễ tôn giáo thì mọi thứ “lễ lạc”
khác đều vô nghĩa. Chính vì tầm quan trọng của Ngày Lễ này mà hằng năm Giáo hội
của tôi dành gần cả tháng trời để chuẩn bị. Thời gian chuẩn bị ấy thường được gọi
là “Mùa Vọng”. Vọng là hy vọng, là chờ đợi. “Mùa Vọng” là nói theo tiếng Việt.
Còn trong các ngôn ngữ Tây phương bắt nguồn từ tiếng Latinh thì mùa chuẩn bị Lễ
Giáng Sinh được gọi là “Mùa Đến” (Adventus, Advent hay Avent). Kết hợp ngôn ngữ
Tây phương với tiếng Việt, tôi hiểu được rằng thời gian chuẩn bị mừng Lễ Giáng
Sinh là Mùa chuẩn bị tinh thần để đón rước Chúa Kitô là “Đấng Đang Đến”. Đây là
điểm giáo lý nòng cốt mà năm nào trong các thánh lễ Mùa Vọng, các linh mục cũng
nhắc nhớ để qua đó mời gọi các tín hữu chúng tôi luôn trong tư thế sẵn sàng để
nhận biết và đón tiếp Ngài là Đấng đang đến trong mọi biến cố, hoàn cảnh, con
người và từng phút giây của cuộc sống. Luôn tỉnh thức như thế quả là một thách
đố quá lớn đối với tôi. Cứ ngẫm nghĩ và “xét mình”, quả thực tôi thấy không biết
bao nhiêu lần Ngài đã “đi qua” mà tôi
không nhận ra hay cố tình không muốn nhận biết hoặc ngay cả khước từ Ngài.
Tôi nhận ra thái độ của mình trong nhân
vật Đại phán quan trong quyển tiểu thuyết có tựa đề “Anh em nhà Karamazov” của văn hào Nga Fyodor Dostoyeski vào thế kỷ
19. Bối cảnh của câu chuyện là những vụ xử án của Tòa Điều Tra vào thời Trung cổ
tại Âu Châu. Tác giả cho Chúa Kitô “đến”
tại thành phố Sevilla, Tây ban nha, chỉ một ngày sau khi có 100 người bị kết án
là “lạc giáo” và bị đưa lên giàn hỏa
thiêu. Tác giả viết: “Mặt trời yêu thương
bùng cháy trong trái tim Ngài” khi Ngài đi qua giữa dân chúng với một nụ cười
cảm thông vô biên. Tất cả mọi người đều nhận ra Ngài; họ khóc lóc và hôn từng
bước chân Ngài đi qua. “Trẻ em rải hoa
trên lối đi của Ngài; chúng ca hát và hô lớn “Hosanna”.
Chúa Giêsu đi ngang qua một nhà thờ
chính tòa khi người ta khiêng vào đó quan tài của một thiếu nữ 17 tuổi. Người mẹ
của cô gái đến sụp lạy dưới chân Ngài và van nài: “Nếu Ngài là Chúa Giêsu, xin hãy làm cho con tôi được sống lại”.
Ngài đưa mắt nhìn vào thi hài bất động với tất cả sự cảm thương và thốt lên: “Hãy chỗi dậy”. Lập tức cô gái ngồi dậy,
bước ra khỏi quan tài, trên tay cầm một bó hoa hồng trắng.
Chính ngay lúc đó, vị đại phán quan là một
vị hồng y già 90 tuổi cũng đi ngang qua nhà thờ chính tòa. Do tận mắt chứng kiến
cảnh người chết sống lại cho nên ông ra lệnh bắt giữ Chúa Giêsu. Đêm hôm đó,
ông vào nhà tù để gặp gỡ Tù Nhân. Vị đại phán quan nhìn rất lâu vào mặt Chúa
Giêsu, rồi lên tiếng hỏi: “Có phải Ngài
không?” Nhưng Người Tù chưa kịp trả lời thì ông lại nói: “Thôi, đừng nói gì cả. Dù thế nào thì ta cũng biết Ngài muốn nói gì rồi.
Và Ngài không có quyền thêm bất cứ điều gì vào những gì Ngài đã nói lúc sinh thời.
Tại sao Ngài trở lại để xen vào chuyện của chúng tôi?”
Vị hồng y đại phán quan đã độc thoại rất
lâu trước mặt Chúa Giêsu và đe dọa sẽ đưa Ngài lên giàn hỏa thiêu bởi vì Ngài
là “kẻ lạc giáo độc hại nhứt trong những kẻ
lạc giáo”. Nhưng vị hồng y già không cảm thấy thoải mái lắm bởi vì “Người
Tù” lúc nào cũng nhìn thẳng vào mắt ông, chăm chỉ lắng nghe mà cũng chẳng muốn
nói một lời nào. Ông muốn cho Tù nhân nói một lời nào đó, dù là một lời cay đắng
hay khủng khiếp. Nhưng Tù Nhân bỗng tiến gần đến Cụ Già và không nói không rằng,
đặt một cái hôn lên đôi môi vô cảm của ông. Ông rùng mình. Một cái gì đó làm cho khóe miệng ông co
giựt. Ông lùi lại phía trước, mở cửa ngục và nói với Chúa Giêsu: “Xin Ngài hãy đi và đừng trở lại nữa...Đừng
bao giờ, đừng bao giờ trở lại nữa.” (Geoffrey Plant, Tell Me a Story,
Harper Collins religious, Australia 2000, trg 45-46)
“Đừng
bao giờ, đừng bao giờ trở lại nữa”: có lẽ đây cũng là câu nói tàn nhẫn mà
biết bao nhiêu lần, vì không tỉnh thức hay vì ác ý, tôi cũng đã vô tình thốt
lên với “Đấng Đang Đến” dưới hình dáng của vô số những người mà tôi gặp gỡ mỗi
ngày, nhứt là những người cần được tôi giúp đỡ và cảm thông.
Tôi vẫn thường gẫm suy về câu chuyện được
chuyên gia tâm lý Scott Peck ghi lại trong cuốn sách nổi tiếng có tựa đề “Con Đường Ít Được Đi” (The road less
travelled, do nhà xuất bản Random House phát hành năm 1978). Theo câu chuyện, tại
một vùng hẻo lánh nọ, có một tu viện rất nổi tiếng. Cuộc sống thánh thiện của
các tu sĩ đã thu hút được rất nhiều người. Không bao lâu, tu viện biến thành một
trung tâm hành hương. Nhưng không rõ vì một nguyên nhân nào đó, số người tìm đến
tu viện ngày càng thưa thớt. Vị tu viện trưởng mới tìm đến một giáo trưởng Do
thái thông thái để vấn kiến. Sau khi lắng nghe câu chuyện, giáo trưởng Do thái
mới nói với bề trên tu viện rằng “một tu
sĩ trong cộng đồng của ngài là Đấng Cứu Thế”. Vị tu viện trưởng liền tức tốc
trở về tu viện và tập trung các tu sĩ lại để loan báo cái tin khủng khiếp đó. Kể
từ hôm đó, mọi tu sĩ đều bắt đầu nhìn và đối xử với người bên cạnh mình như Đấng
Cứu Thế. Cuộc sống trong tu viện thay đổi hẳn và dĩ nhiên cũng được lan truyền
ra bên ngoài. Khách hành hương bắt đầu trở lại tu viện.
Nhìn thấy, tôn trọng và yêu thương mỗi một
tha nhân như “Đấng Cứu Thế”: đây chính là “chìa khóa” của Mẹ Têrêxa Calcutta đã
và đang dùng để xoa dịu được phần nào nỗi khổ đau của vô số người dân nghèo khổ
tại Ấn độ và trên khắp thế giới. Người nữ tu này không phải là một nhân viên xã
hội lại càng không phải là một chính trị gia, một nhà kinh tế học hay một
chuyên gia thảo kế hoạch. Một số người trách cứ Mẹ Têrêxa chỉ giải quyết vấn đề
trong đoản kỳ, mà không tìm cách chữa trị căn bệnh tự trong gốc rễ. Chúng ta
thường nghĩ rằng những thách đố “toàn cầu” chỉ có thể giải quyết được bởi những
nhà lãnh đạo có viễn kiến, những tài nguyên vô giới hạn và những cuộc họp thượng
đỉnh. Thật ra, mỗi người trong chúng ta, ai cũng có thể đóng góp để làm cho thế
giới này trở thành một nơi tốt đẹp và đáng sống hơn. Chúng ta không cần phải
đóng góp bằng những chương trình vĩ đại hay tham gia một phong trào vĩ đại, mà
bằng những hành động nhỏ mỗi ngày và những quyết định qua đó, cùng với hành động
của triệu triệu người khác trên thế giới, có thể thay đổi bộ mặt thế giới. Đây chính
là niềm xác tín của Mẹ Terexa Calcutta, một niềm xác tín được xây dựng trên niềm
tin là: bất cứ nghĩa cử nào, dù nhỏ bé đến đâu, được làm cho tha nhân cũng
chính là làm cho Đấng Cứu Thế.
Tôi đặc biệt nghĩ đến người nữ tu được
trao tặng Giải Nobel Hòa bình năm 1979 này mỗi lần nhìn thấy những gói quà
Giáng Sinh được mang đến nhà thờ trong các ngày chúa nhựt Mùa Vọng. Năm nay,
giáo xứ nơi tôi thường đi lễ sẽ gởi những món quà Giáng Sinh này đến những gia
đình nghèo tại Mount Druit, miền Tây Sydney. Nhìn những gói quà với đủ mọi nhu
yếu phẩm kèm theo được gói ghém cẩn thận, tôi đoán được rằng những người trao tặng
muốn đặt vào đó tất cả tình thương của mình dành cho những người kém may mắn.
Tôi chợt nhớ đến câu nói rất quen thuộc của Mẹ Têrêxa Calcutta: “Hãy làm một cái gì đẹp cho Thiên Chúa”.
Đây là câu nói đã được ký giả người Anh Malcolm Muggeridge mượn làm tựa đề cho
một cuốn sách để giới thiệu cho thế giới về Mẹ Têrêxa và công cuộc từ thiện của
các nữ tu Dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ thành lập. Hiện nay các nữ tu của Mẹ đang
có mặt tại 123 nước trên thế giới. Họ ưu tiên phục vụ cho những người cùng khổ
và những thành phần bị đẩy ra bên lề xã hội như các bệnh nhân phung cùi, những
người mắc bệnh Aids.
“Triết lý” và chủ trương của Mẹ Têrêxa vẫn
tiếp tục bị chỉ trích. Luận điệu quen thuộc vẫn là: Mẹ chỉ giúp cho người nghèo
được sống cầm hơi chứ không nhỗ tận gốc rễ căn nguyên của sự nghèo đói. Chủ
trương của Karl Marx và chủ nghĩa cộng sản thì hoàn toàn ngược lại: Họ chủ
trương giải quyết tận căn nguyên. “Rằng
hay thì thật là hay”. Nhưng rõ ràng cái thiên đường cộng sản chỉ là một thứ
không tưởng mỵ dân bằng những chiếc bánh vẽ. Biết bao lần trong lịch sử đã chứng
minh rằng con đường dẫn xuống hỏa ngục thường được lát toàn bằng những “thiện
ý”! Ngày nay, chủ nghĩa cộng sản đã bị
quăng vào hố rác của lịch sử, nhưng những ý tưởng, chương trình và kế hoạch “vĩ
đại” vẫn còn đó và những mục tiêu lớn được đề ra vẫn mãi mãi là những “chữ chết”
trong các tuyên ngôn quốc tế. Một hành động nhỏ luôn vĩ đại hơn một lý thuyết
hay ho.
Trong các thánh lễ Mùa Vọng bằng Anh ngữ,
tôi thấy ở mỗi đầu thánh lễ, vị linh mục chủ tế có thắp lên một ngọn nến được đặt
trên một vòng hoa. Tôi không rõ nguồn gốc của vòng hoa và việc đốt nến này. Đây
có lẽ chỉ là truyền thống riêng của các dân tộc “Anglo Saxon”. Mùa Vọng ở các
nước Tây phương thường cũng đã là Mùa Đông. Giữa mùa Đông lạnh lẽo, một ánh nến
được đốt lên như để hâm nóng niềm hy vọng của con người. Giữa mùa giá rét, hoa
của hy vọng vẫn có thể nở rộ.
Riêng với tôi, ý tưởng thường xuất hiện
trong đầu tôi mỗi khi tham dự vào nghi thức đốt nến ở đầu thánh lễ vẫn là câu
nói mà ông Peter Benenson, một luật sư người Anh sáng lập Tổ chức Ân Xá Quốc Tế
đã nói tại một buổi lễ cử hành Ngày Quốc Tế Nhân Quyền 10 tháng 12 năm 1961: “Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà
nguyền rủa bóng tối.” (better to light one candle than to curse the
darkness)
Mỗi khi gặp gỡ một ánh mắt nhìn thân thiện,
tôi luôn cảm thấy như được sưởi ấm. Và tôi tin rằng ai cũng có cùng một cảm nhận
tương tự từ những cử chỉ thân ái nhỏ nhặt từ người khác. Thực tình mà nói, ngọn
nến không khó để thắp lên, vấn đề là tôi có đủ can đảm bỏ bớt thì giờ dành
riêng cho mình để bước ra hòa mình và chia sẻ với người khác hay không.
Một Lễ Giáng Sinh trọn vẹn không thể
không có thật nhiều những ngọn nến yêu thương như thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét