12.12.15

Janki Devi là một nạn nhân tiêu biểu của bạo động chống nữ giới. Năm 15 tuổi,
người thiếu nữ này đã gặp gỡ và yêu một thanh niên trên dưới 20 tuổi tên là
Anand Kumar. Vài tháng sau, cô mất đi cái giá nghìn vàng của người phụ nữ. Dù vậy
gia đình 2 bên quyết liệt chống lại sự tác hợp đôi bạn trẻ. Đây là điều thường
xảy ra ở những vùng quê của Tiểu bang Uttar Pradesh, Bắc Ấn Độ cũng như trên
toàn quốc nói chung. Hôn nhân trước hết là chuyện do gia đình dàn xếp và quyết
định, chứ không thể là chuyện “ăn cơm trước kẻng” được. Khi quyết định về chuyện
hôn nhân của con cái, cha mẹ hai bên thường làm một bài tính trong đó họ cân nhắc
kỹ lưỡng những yếu tố quan trọng như giai cấp, tình trạng kinh tế và ngay cả
quan hệ chính trị giữa hai bộ lạc hay gia đình. Theo họ, với thời gian và thói
quen, thế nào tình yêu cũng đến thôi.
Đối với Janki và Anand, một phương trình như thế đương nhiên không mang lại
một kết quả mong muốn. Do đó, cha mẹ hai bên đã yêu cầu họ chấm dứt mối quan hệ.
Nhưng đã lỡ yêu nhau, đôi bạn trẻ quyết định vượt qua tính toán của gia đình và
âm thầm cưới nhau. Làm như thế họ mới mong đặt gia đình hai bên trước một sự việc
đã rồi. Nhưng theo đòi hỏi của truyền thống, người chồng phải về sống chung với
gia đình bên vợ. Và đây là một khởi đầu của một cơn ác mộng đối với Janki.
Không hiểu vì lý do nào đó, cô không bao giờ được phép làm bất cứ một xét nghiệm
y khoa nào, cho nên không
còn khả năng sinh con đẻ cái. Chính vì vậy mà cha mẹ chồng cô đã tưới
xăng vào người cô để thiêu sống cô. Khám phá kịp thời, hàng xóm đã đưa cô vào bệnh
viện, nhưng không thể cứu sống cô. Cha mẹ cô đã làm đơn tố cáo, nhưng cảnh sát
chẳng màng điều tra và các cơ quan truyền thông cũng chẳng tỏ ra tha thiết với
số phận bi thương của người vợ trẻ này.
Janki chỉ là một trong hơn 300.000 phụ nữ mỗi năm phải trải qua nhiều hình
thức khác nhau về bạo động chống nữ giới tại Ấn Độ. Theo những con số thống kê
chính thức năm 2013, tại quốc gia đông dân số thứ nhì trên thế giới này, cứ 10
phút có một người phụ nữ bị bắt cóc và cứ mỗi 20 phút có một người bị hãm hiếp.
Dĩ nhiên, những con số này cũng chưa phản ảnh đúng thực tế của tình trạng bạo động
đối với người phụ nữ Ấn Độ. Theo bà Doreen Reddy, giám đốc của Chương Trình
Phát Triển Nữ Giới, “cứ có một trường hợp được báo cáo, thì cũng có ít nhất một
người đang âm thầm đau khổ”. Điều đó có nghĩa là có đến một nửa số trường hợp bạo
hành trong gia đình Ấn Độ bị che đậy hay chối bỏ. Người đàn ông Ấn Độ thường nại
đến việc người vợ thiếu tôn trọng đối với gia đình nhà chồng để hành hạ vợ. Sự
son sẻ của người vợ cũng là một yếu tố người chồng thường đưa ra để hành vợ vợ
mình.
Nhiều người Ấn Độ cho rằng một người đàn bà không sinh con chẳng khác nào một
con vật vô dụng và như trong trường hợp của Janki, gia đình chồng tự cho phép
có quyền giải quyết vấn đề bằng cách thủ tiêu cô. Tuy nhiên, cha của cô Janki,
ông Dinesh Prasad Panday, khẳng định rằng không thể đưa ra bất cứ một lý do nào
để biện minh cho việc giết hại một người phụ nữ. Do đó, sau nhiều lần yêu cầu cảnh
sát truy tố gia đình nhà chồng của Janki là một gia đình thuộc giai cấp cao hơn
cũng như có quan hệ thân thiết với chính quyền địa phương, ông Panday đã quyết
tâm đi tìm công lý cho con mình bằng một cách khác: ông đã liên lạc với tổ chức
“Gulabi Gang”. Được thành lập vào năm 2006, hiện nay Tổ chức này đã qui tụ được
khoảng 400.000 thành viên rải rác trên khắp Ấn Độ. Những người phụ nữ mặc Sari
hồng, tay cầm gậy tầm vông này, đã trở thành một nỗi kinh hoàng đối với những kẻ
hãm hiếp, bạo hành và ngay cả những cảnh sát viên tham nhũng. Lý do khiến cho Tổ
chức này có thể gây kinh hoàng cho những tên tội phạm thật đơn giản: bà Sampat
Pal Devi, người sáng lập tổ chức, không bao giờ tỏ ra nhân nhượng trước tội ác!
Người phụ nữ 53 tuổi này đã đón tiếp ông Panday tại tầng trệt của một cao ốc
ba tầng do bà sở hữu. Sau khi đã lắng nghe câu chuyện và một số hình ảnh của Janki,
nhất là việc cô bị thiêu sống, bà Sampat đã lấy điện thoại cầm tay gọi chính
viên cảnh sát đã từng từ chối không chịu nói chuyện với ông Panday. Với giọng
nói sang sảng và cương quyết, bà cảnh cáo viên cảnh sát rằng nếu họ không tiến
hành một cuộc điều tra thấu đáo về cái chết của cô Janki, họ sẽ phải đối mặt với
một đám đông phụ nữ trước trụ sở của họ.
Sau khi gọi điện thoại đến đồn cảnh sát, người sáng lập và chủ tịch của tổ
chức “Gulabi Gang” giải thích với ông Panday: “Tôi không chủ trương bạo động,
nhưng đôi khi đó lại là cách duy nhất để chiến đấu”. Bởi vì theo bà, có những
người mà lời nói và lý lẽ chẳng thấm vào đâu cả. Lần đầu tiên bà sử dụng bạo động
là năm 2002, khi bà chứng kiến cảnh một người đàn ông đánh đập một phụ nữ trên
đường phố. Bà đã can thiệp và bị đánh lại. Ngày hôm sau, bà liền huy động 5 người
phụ nữ trong làng lại để thi hành luật “mắt đền mắt răng thế răng”. Chiến thuật
này đã tỏ ra có hiệu quả, cho nên khi cần bà quyết định sử dụng nó. Cách đây
vài tháng, bà lên tiếng tố cáo một thẩm phán vì đã tỏ ra “vô cảm” trước một vụ
bạo hành đối với nữ giới và không ngần ngại lôi ông ra ngoài đường. Chính vì vậy
mà bà cũng bị án treo.
Dù sao, tiếng nói của bà có một tác động mạnh. Chỉ nửa tiếng đồng hồ sau
khi bà gọi điện thoại đến đồn cảnh sát, ông cảnh sát trưởng đã đồng ý gặp ông
Panday. Chuyện của cô Janki không phải là trường hợp duy nhất bà phải đứng ra
giải quyết. Mỗi ngày, bà Sampat phải lắng nghe nhiều câu chuyện như thế và câu
chuyện nào cũng khiến bà phẫn nộ như chính câu chuyện của bà.
Là con gái của một gia đình nông dân nghèo, năm 12 tuổi bà Sampat đã bị cưỡng
bách phải về làm vợ một người đàn ông 25 tuổi, khi chỉ mới có kinh nguyệt lần đầu.
Bà kể lại: “Tôi bị bứng ra khỏi trường học khi tôi chưa biết đọc biết viết và
trở thành một người nô lệ trong gia đình nhà chồng”. Ba năm sau, bà sinh đứa
con đầu lòng và cứ năm một mà sinh thêm 5 đứa con nữa. Nhưng nhờ lòng quả cảm
và sự cương quyết, bà đã khiến gia đình nhà chồng phải trọng nể bà. Không bao
lâu, bà nhận ra điều bà phải làm là bằng mọi giá phải giải phóng người phụ nữ.
Mục tiêu của bà vừa cụ thể, rõ ràng cũng vừa đầy tham vọng: “ Nhổ tận gốc tệ nạn
tảo hôn và truyền thống “của hồi môn” (mà người phụ nữ phải nộp cho gia đình
nhà chồng), không nhân nhượng đối với tệ nạn bạo hành gia đình, khẳng định phẩm
giá người phụ nữ xuyên qua giáo dục và gây ý thức trong xã hội”.
Tại Ấn Độ, nữ giới bị kỳ thị ngay cả trước khi chào đời. Kỹ thuật xác định
giới tính của thai nhi hiện cũng đã được sử dụng ngay cả tại những vùng nông
thôn. Nếu khám phá thai nhi trong bụng mình là một đứa con gái, nhiều người phụ
nữ bị cưỡng bách phải phá thai. Do đó, nếu trên thế giới trung bình cứ 100 trẻ
gái thì có 106 trẻ trai, thì tại Ấn Độ số con trai lại lên đến 112 em. Theo ước
tính, trong 3 thập niên vừa qua, đã có không dưới 12 triệu trẻ em gái Ấn Độ
không được chào đời vì truyền thống trọng nam khinh nữ này.
Vanita, một phụ nữ hiện đã 21 tuổi, là một trường hợp may mắn. Mãi cho đến
lúc cô chào đời, cha mẹ cô mới thực sự biết rõ giới tính của cô. Cô là chị cả
trong gia đình 5 người con. Cô là điển hình của tấn thảm kịch mà người phụ nữ Ấn
Độ phải trải qua. Cô phải chịu 3 loại kỳ thị: kỳ thị vì bị khuyết tật về thể
lý, kỳ thị vì thuộc một bộ lạc thiểu số và nhất là kỳ thị vì là một phụ nữ.
Nhưng cơn ác mộng chỉ thực sự đến với cô khi cô được 15 tuổi. Vì mẹ cô chết sớm,
cha cô bắt đầu đi lại với người em gái của mẹ cô. Vì không chấp nhận quan hệ
này cho nên cô bị người cha tống ra khỏi nhà bằng cách gả cho một người chú già
hơn cô rất nhiều.
Luật pháp Ấn Độ nhìn nhận những cuộc hôn phối như thế. Nhưng Vanita cương
quyết chống lại. Mẹ ghẻ cô liền nghĩ đến một giải pháp rất thông thường tại Ấn
Độ: dàn xếp cho người chú hãm hiếp cô. Biết trước âm mưu này, Vanita tìm cách tự
tử trước khi người cậu ra tay. Các bác sĩ đã kịp cứu sống cô. Nhưng cũng kể từ
đó, gia đình cô đã hoàn toàn quay lưng lại với cô. Cuối cùng, họ cũng tìm cách
gả cô cho một người đàn ông đã có vợ. Sở dĩ người đàn ông này có thể tái hôn là
vì ông ta chưa có con. Vanita không còn một chọn lựa nào nữa.
Mặc dù về mặt kinh tế, Ấn Độ đã gia nhập vào Khối G20, gồm 20 nước có nền
kinh tế mạnh nhất thế giới hiện nay, tình trạng xã hội, nhất là liên quan đến
phẩm giá và quyền của phụ nữ, vẫn còn tồi tệ. Cách đây 3 năm, kết quả của một
cuộc thăm dò được thực hiện với 370 chuyên gia về những vấn đề giới tính trên
khắp thế giới đã cho thấy Ân Độ là quốc
gia tồi tệ nhất trong Khối G20 “để làm một người phụ nữ”. Những con số thống kê
cho biết: mỗi năm có đến 56.000 thai phụ Ấn Độ phải chết khi sinh con, tỷ lệ biết
đọc biết viết của phụ nữ nước này chỉ được 55 phần trăm. Trên 50 phần trăm dân
số Ấn Độ vẫn còn xem việc đánh đập vợ là điều có thể chấp nhận được. Ngoài ra,
cũng phải kể đến tỷ lệ hiện diện của người phụ nữ Ấn Độ trong Quốc hội: chỉ có
11 phần trăm dân biểu là phụ nữ!
Tương lai của người phụ nữ Ấn Độ vẫn còn đen tối. Tuy nhiên, người sáng lập
Tổ chức “Gulabi Gang” vẫn tỏ ra lạc quan, nhất là kể từ sau sự kiện một nữ sinh
viên tên là Jyoti Singh bị hãm hiếp tập thể ngay tại Thủ đô Delhi dạo tháng 12
năm 2012. Theo bà Sampat, cái chết của cô gái này không vô ích. Dân chúng Ấn Độ
ngày càng ý thức hơn về thân phận bị kỳ thị và miệt thị trong xã hội Ấn Độ. Và
hơn ai hết, chính người phụ nữ nước này cũng ngày càng ý thức hơn rằng họ cần
phải được tôn trọng đúng với phẩm giả của họ.
(theo:http://thediplomat.com/2015/12/fighting-for-indias-women/)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét