Những ngày sống trong trại tỵ nạn, một trong những thú
“tiêu khiển” của tôi là sưu tầm chuyện tiếu lâm. Đa số các câu chuyện tiếu lâm
tôi nghe được trong trại tỵ nạn đều xoay quanh hai chủ đề: “cán ngố” và cái đói
trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về cái đói, tôi vẫn nhớ mãi câu
chuyện về một cuộc thi quốc tế “biểu thị” cái đói qua tranh vẽ. Người đoạt giải
nhứt trong cuộc thi này là một người Việt Nam. Người họa sĩ Việt Nam đoạt giải
nhứt nhờ bức tranh vẽ một đứa bé trần truồng, ngồi chổng mông lên trời, mạng nhện
giăng đầy hậu môn!
Tưởng chỉ có trong chuyện tiếu lâm người ta mới có thể tưởng
tượng một cảnh đói đến độ lâu ngày bộ máy tiêu hóa ngưng hoạt động và mạng nhện
bít đi cái lỗ bài tiết. Nhưng dạo tháng 3 năm 1993, tôi không ngờ một cảnh đói
thật được nhiếp ảnh gia Kevin Carter, Nam Phi ghi lại trông còn khủng khiếp hơn chuyện tiếu lâm hoàn
toàn “hư cấu” tôi nghe được trong trại tỵ nạn. Bức ảnh đã được nhiếp ảnh gia
Carter chụp nhân một chuyến đi Nam Sudan,
Phi Châu. Trong bức ảnh, người ta thấy một bé gái khoảng 2,3 tuổi, trần truồng,
đói lả đến độ đi không nổi đành phải ngồi gục mặt xuống đất.
Cách đó không quá 3 thước, một con diều hâu đang trong tư thế chờ đợi và sẵn
sàng dương móng vuốt ra để xé thịt “con mồi”. Tác giả bức ảnh cho biết cha mẹ của
bé gái đang đi lãnh thực phẩm do một chiếc máy bay của Liên Hiệp Quốc chở đến.
Ông đã phải chờ 20 phút để xem con diều hâu có bay đi không. Nhưng nó vẫn cứ chờ
đợi. Cuối cùng, sau khi chụp được bức ảnh, ông đã đuổi con chim săn mồi đi.
Bức ảnh đã được bán cho báo The New York Times và được
xem như hình ảnh sống động nhứt nói lên nạn đói khủng khiếp tại Sudan ở đầu thập
niên 1990. Nghe đâu, chính nhiếp ảnh gia Carter đã bị ám ảnh bởi bức ảnh này.
Vào thời đó, tại Sudan, các ký giả được lệnh không nên chạm đến các nạn nhân của
nạn đói, vì có nguy cơ bị lây nhiễm. Nhưng nhiếp ảnh gia này đã bị chỉ trích nặng
nề vì đã không chịu tức khắc cứu lấy đứa bé mà chỉ chú tâm vào việc “săn ảnh”.
Trên bài quan điểm của một tờ báo nọ, nhiếp ảnh gia Carter đã bị lên án vì chỉ
biết “điều chỉnh ống kính nhắm vào đứa bé gái đang đau khổ. Có lẽ ông cũng chỉ
là một con vật săn mồi, một con diều hâu khác trong bức ảnh”. Chính do những lời
chỉ trích nặng nề này mà, mặc dù được trao tặng giải Pulitzer, Carter bị ám ảnh
đến nỗi ba tháng sau đó đã tự tử.
Bức ảnh của Carter đã lột tả một cách sống sượng cái đói
mà hầu như ở bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử nhân loại, thế giới cũng đều có
thể trải qua. Nhiều cụ già Việt Nam hẳn không thể nào quên được hình ảnh của
cái đói năm Ất Dậu 1945 mà Miền Bắc Việt Nam đã nếm trải. Nhưng bên cạnh những
đống xác chết, nổi bật hơn cả vẫn là hình ảnh của bầy chim diều hâu.
Con diều hâu được chụp cận cảnh trong bức ảnh của nhiếp ảnh
gia Carter, lúc nhỏ tôi rất ít thấy. Ở quê tôi, loại chim săn mồi đáng sợ nhứt
thường được gọi một cách ngắn gọn là “diều”. Diều có lông cánh mầu nâu và thường
bay lượn trên cao. Mỗi khi diều thả rơi
người xuống là ở dưới đất gà mẹ báo động và gà con kêu la inh ỏi. Có lẽ hầu như
không có bầy
gà con nào, dù được mẹ gà bảo bọc kỹ đến đâu, mà còn nguyên vẹn với những “phi
vụ” rất chính xác của diều. Lũ trẻ con nhà quê chúng tôi rất căm thù loại diều này, nhưng không làm gì được chúng. Không
những chúng bay trên cao đến độ không có loại ná “cao su” nào có thể bắn tới,
mà khi đáp xuống mặt đất, chúng nó hành động nhanh đến nỗi không những gà mẹ mà cũng chẳng có ai trở tay kịp.
Bên cạnh loại diều “nâu” này, thỉnh thoảng đi tắm sông,
tôi cũng nhìn thấy trên bãi cát một vài con “diều hâu” to đen bu quanh mấy cái
xác heo chết sình. Quê tôi không gọi nó là diều hâu mà đặt cho nó một cái tên
nghe cũng đã thấy bốc lên mùi thối tha
là “kên kên”.
Đây mới thực sự là loại chim mà ở đâu có xác chết là có
chúng.
Không hiểu sao cứ nhắc đến “kên kên” là tôi lại nghĩ đến
mấy ông cộng sản Việt Nam. Sở dĩ có sự liên tưởng ấy là vì một trong bức ảnh chụp
được về cảnh đấu tố tại Miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ cải cách ruộng đất
trông chẳng khác gì bức ảnh nổi tiếng của nhiếp ảnh gia Carter. Trong bức ảnh về
đấu tố khiến tôi thường bị ám ảnh, người ta thấy một đám đông nông dân ngơ ngác
đứng nhìn một nạn nhân đang quằn quại trên bãi đất khô. Trong đám đông ngơ ngác ấy, có người mẹ
ôm đứa con quay mặt đi chỗ khác, có người lấy tay che mặt. Duy chỉ có một anh
cán bộ mặc bộ quần áo bà ba đen, đứng tách ra khỏi đám đông, tay đứng chống nạnh,
bộ mặt đằng đằng sát khí. Nếu bôi xóa cái đám đông ngơ ngác kia đi thì trong bức
ảnh chỉ còn lại hai hình ảnh: một bên là con người khốn khổ đã chết hoặc đang
thoi thóp thở và một bên là “con kên kên” vô cảm hoặc chỉ nung nấu duy nhứt trong lòng bằng sự tham tàn và hận thù.
Tôi ít tin tưởng ở ý thức hệ. Có lẽ câu nói đầu tiên mà
tôi học được khi vừa bước chân vào ngưỡng cửa triết học là câu “chính những tư
tưởng lèo lái thế giới” (ce sont les idées qui mènent le monde). Nhìn lại lịch sử thế giới, tôi thấy
quả thật tư tưởng đã hướng dẫn và lèo lái thế giới. Tư tưởng của các triết gia
“Thời đại Ánh Sáng” (Siècle des Lumières, Age of Enlightenment) vào thế kỷ 18 ở
Âu Châu đã thực sự nêu cao vai trò của
lý trí và đã khai mào cho các cuộc cách mạng. Nhân loại đã làm được một bước tiến
vĩ đại nhờ phong trào trí thức này. Sang đến thế kỷ 20, tư tưởng của con người
lại càng chứng tỏ được sức mạnh phi thường
của nó. Nhân loại đã chứng kiến sức mạnh của ý thức hệ qua hai thứ chủ nghĩa đồi
bại nhứt trong lịch sử thế giới, một là Đức Quốc Xã hai là Chủ nghĩa Cộng sản.
Bao nhiêu nạn nhân đã bị nghiền nát bởi hai ý thức hệ này. Bao nhiêu con thiêu
thân đã lao mình vào lò lửa hận thù do hai ý thức hệ này đốt lên.
Thật ra không phải những ý thức hệ ấy đã lãnh đạo thế giới,
mà chỉ có những người đẻ ra ý thức hệ ấy hoặc sử dụng ý thức hệ ấy để lèo lái
thế giới. Ý thức hệ chẳng khác nào một thứ bánh vẽ người ta nhét vào miệng những
người ngu đần, thiếu suy nghĩ hoặc không muốn suy nghĩ bằng cái đầu của mình. Nói
một cách nôm na như người dân quê của tôi, ý thức hệ được những người lãnh đạo
sử dụng để lèo lái thế giới chẳng khác nào “cứt gà sáp nhét vào miệng trẻ con”.
Đằng sau ý thức hệ, đằng sau thiên đàng không tưởng, đàng sau đủ mọi lời lẽ hoa
mỹ và bánh vẽ vẫn là ý chí thống trị của một thiểu số. Hitler chẳng tin gì ở một
nước Đức chỉ có siêu nhân. Tên đồ tể này chỉ muốn làm bá chủ thiên hạ. Lenin,
Stalin chẳng tin và cũng chẳng muốn xây dựng một thế giới đại đồng, bình đẳng
nào cả. Họ chỉ là hai nhà độc tài đeo đuổi giấc mộng “Đại Nga” trong đó họ sẽ
là một thứ Nga hoàng toàn quyền trên mọi của cải và ngay cả tử tưởng và mạng sống
con người. Liệu ngày nay có ai còn tin rằng tên đồ tể Mao Trạch Đông muốn xây dựng
thiên đàng trần thế không? Đằng sau thứ bánh vẽ mà ông đã nhét vào miệng của
triệu triệu người Trung Hoa là gì nếu không phải là giấc mộng “Đại Hán” trong
đó ông sẽ là “thiên tử” cai quản thế giới với toàn quyền sinh sát trong tay?
Hồ Chí Minh, người đã tôn các ‘bác’ Lenin, Stalin và Mao
Trạch Đông lên bậc thày không bao giờ sai lầm của mình, cũng chẳng đi con đường
nào khác và cũng chẳng đeo đuổi một giấc mộng nào khác hơn là “bá chủ”, dù chỉ
là bá chủ trên toàn cõi Việt Nam. Người tự tôn mình lên hàng “cha già dân tộc”
thật ra cũng chỉ là một “bản sao” của các “thánh” cộng sản mà lúc nào ông cũng
cúc cung thần phục. Nhà thơ Chế Lan Viên (1920-1989), người về cuối đời mới chịu
nhìn nhận mình đã từng ăn bánh vẽ của Hồ Chí Minh và đã xúi giục bao nhiêu thế
hệ Việt Nam phải “nhai ngồm ngoàm” cái bánh vẽ ấy, đã nói lên cái chân lý “trước
sau như một” và “không bao giờ sai lầm” về Hồ Chí Minh bằng hai câu thơ: “Bác Mao không ở đâu xa. Bác Hồ ta đó chính
là Bác Mao”.
Ngày nay, có ngây ngô lắm thì may ra có người còn tin rằng
những Nguyễn Phú Trọng, những Trương Tấn Sang, những Nguyễn Tấn Dũng và 4 triệu
đảng viên cộng sản đang quyết tâm “tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên xã hội chủ nghĩa và xây dựng thiên đàng
không có cảnh người bóc lột người. Tôi không tin tưởng ở ý thức hệ này và tôi
cũng tin rằng hơn cả tôi, những người Việt Nam tự vỗ ngực là “cộng sản” cũng chẳng
chút mảy may tin tưởng gì ở ý thức hệ này. Đằng sau cái bánh vẽ mà chẳng còn
anh họa sĩ cộng sản nào còn có đủ can đảm để vẽ cho ra hồn, xét cho cùng, là cả
một lũ “kên kên” đang bám vào cái xác chết của quyền lực và tiền bạc.
Tôi hoàn toàn đồng ý với nhà văn Chu Tất Tiến khi ông bàn
về những nguyên nhân tại sao chế độ Cộng sản Việt Nam chưa sụp đổ. Theo tác giả,
“theo dõi những quan hệ chồng chéo của toàn bộ hệ thống hành chánh từ dưới lên
trên, từ trên xuống dưới, từ trung ương xuống địa phương, từ ngành này sang
ngành khác, người ta sẽ thấy đây là một hệ thống gắn bó chặt chẽ, khó tách rời
bởi vì chúng dựa trên một nguyên tắc rất đơn giản: TIỀN! Như câu vè mà dân gian
Việt Nam đang phổ biến: Tiền là Tiên là Phật, là sức bật tuổi trẻ, là sức khỏe
tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là CÁN CÂN CÔNG LÝ, là ý
nghĩa tình yêu” (x.VL 9/5/2014).
Nhớ đến hai câu thơ của Chế Lan Viên “Bác Mao không ở đâu
xa. Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao”, tôi cảm thấy bi quan trước tình hình đất nước.
Nếu cái lũ “kên kên” kia chỉ biết bám vào cái xác chết của quyền và Tiền thì,
như mọi người Việt Nam đều thấy, “chân lý trước sau như một” đối với họ vẫn còn
nguyên vẹn là “thà mất nước hơn mất Đảng”. Còn Đảng là còn quyền, còn tiền. Rồi
đây, nếu đất nước có bị con Rồng đỏ Tàu Cộng nuốt chửng, thì bọn “kên kên” cũng
chẳng mất gì: với vai trò “thái thú” của thời đại, họ vẫn còn quyền và tiền.
Nhưng liệu một cuộc sống nô lệ, sống kiếp “kên kên” để bám vào một chút bã quyền
lực và tiền bạc, có đáng sống không?
Hình ảnh của con “kên kên” đang rình đứa bé gái Nam Sudan
đói lả với cái mỏ tham lam và đôi mắt vô cảm khiến tôi rùng mình. Khi trái tim
con người không còn biết rung động, khi tâm hồn con người đã chai lì trước nỗi
khổ của người đồng loại, liệu họ có còn là “người” nữa không?
Chu Thập 20.5.2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét