The Twelve Apostles, 5.2014 |
Nguồn gốc thổ dân của một số địa danh tại Úc Đại Lợi nghe
đã lạ tai, âm hưởng Kinh Thánh trong một số danh lam thắng cảnh nghe còn khó hiểu
hơn, nhứt là với những ai chưa làm quen với văn minh Kitô giáo. Tôi nghĩ đến
trước tiên thắng cảnh có tên là “The
Twelve Apostles” ở mạn Nam tiểu bang Victoria mà tôi đã có dịp thưởng ngoạn
trong thời gian gần đây. Tôi không biết rất nhiều đoàn du khách Trung Quốc, con
cháu của Bác Mao, vốn chỉ biết có mỗi “Cuốn sách Đỏ” của Bác, có hiểu được “12
tông đồ” là gì không. Hay cũng như một số “giáo sư đại học” nào đó ở Việt Nam gọi
Tự Lực Văn Đoàn là một “gánh cải lương”, biết đâu họ chẳng hỏi “12 tông đồ” là
những “thằng” nào vậy.
Tôi đã nhiều lần đến Melbourne. Nhưng lần nào tôi cũng chỉ
luẩn quẩn trong nội thành hoặc các khu có đông người Việt sinh sống. Mãi cho đến
gần đây, khi nghe nhiều người quen bảo “đến tiểu bang Victoria mà không đi dọc
theo “con đường đại dương” (The Great Ocean Road) thì coi như chưa biết tiểu
bang này”, tôi mới đặt vé cho một vòng thăm thú dọc theo con đường này. Quả
đúng như nhiều người đã giới thiệu, có lẽ “The Great Ocean Road” là con đường
đáng đi nhứt tại Úc Đại Lợi. Nhưng cái điểm đến của vòng du lịch là thắng cảnh
“The Twelve Apostles” mới là điều đáng nói. Không hùng vĩ bằng các Đại vực
(grand canyon) ở tiểu bang Arizona, Hoa
Kỳ hoặc thác Niagara nằm giữa biên giới Hoa Kỳ và Gia Nã Đại và có lẽ cũng chẳng
vĩ đại hơn một số thắng cảnh khác tại Úc Đại Lợi, nhưng “The Twelve Apostles”
quả là một cảnh thiên nhiên đáng nhìn ngắm. Đây đúng là kỳ công của thiên
nhiên. Những điều kiện thời tiết khắc nghiệt từ Nam Đại Dương đã bào mòn rặng đất
nằm dọc theo bờ biển để tạo ra những tượng đá lớn cao đến 45 thước. Rồi cũng
chính gió và sóng biển lại xói mòn khiến cho các tượng đá từ từ nhỏ lại hoặc chỉ
trong một đêm bị đốn ngã và chôn vùi xuống biển. Chỉ mới đây thôi, ngày 3 tháng
7 năm 2005, một “ông tông đồ” cao khoảng 50 thước đã bị đốn ngã. Ngày 25 tháng
9 năm 2009, một “ông” khác teo nhỏ lại để sinh ra cụm đá “Three Sisters” (Ba chị
em). Hiện nay, mặc dù vẫn tiếp tục được gọi là “12 tông đồ”, toàn bộ thắng cảnh
chỉ còn lại 8 “ông”. Cứ nghe tiếng sóng vỗ và từng cơn gió rít, tôi e rằng sẽ
có lúc chẳng còn “ông tông đồ” nào dám “trơ gan cùng tuế nguyệt” nữa.
Tôi không biết khách du lịch mà đa số là người Trung Quốc
nghĩ gì trong đầu, riêng tôi khi đứng chiêm ngắm các ông phỗng đá “tông đồ”, tự
nhiên lại nhớ đến hai câu thơ của Bà Huyện
Thanh Quan khi bà nhìn Thành cổ Thăng Long: “Nghìn năm gương cũ soi kim cổ. Cảnh
đấy, người đây luống đoạn trường”.
Trước sức mạnh của thiên nhiên và sự bào mòn của thời
gian, dường như chẳng có gì trên trái đất này có thể đứng vững và mãi mãi tồn tại.
Một trận cuồng phong, một cơn thịnh nộ của hỏa diệm sơn, một luồng sóng thần, một
trận động đất...chỉ trong nháy mắt, cũng đủ để tạo ra cảnh “thương hải biến vi
tang điền”. Nói gì đến sức mạnh tự hủy và ngu xuẩn của chính con người. Có cần
gì sức mạnh thiên nhiên để tàn phá những công trình của nhân loại. Bao nhiêu
dinh thự, đền đài, lăng tẩm...trong phút chốc chỉ còn là những hòn đá chồng lên
nhau. Tôi tiếc là mình chưa kịp đến A Phú Hãn để chiêm ngắm các bức tượng Thích Ca cao đến 53 thước, cách thủ
đô Kabul 240 cây số về hướng Tây Bắc và đã có cách đây đến cả 2500 năm, nhưng
đã bị Phong Trào Taliban đặt bom phá hủy hồi năm 2001. Tôi cũng chưa từng được
nhìn Tòa nhà Tháp Đôi ở New York, Hoa Kỳ, đã bị Al Qaeda thiêu rụi trong cuộc
khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001. Sức mạnh hủy diệt của con người cũng thật là
khủng khiếp!
Từ ngàn xưa Chúa Giêsu đã báo trước sức mạnh tàn phá của
chính con người khi Ngài loan báo cái cảnh của Đền thờ Jerusalem “không còn hòn
đá nào trên hòn đá nào”. Lời của Ngài đã thực sự ứng nghiệm khi năm 70 sau công
nguyên, tướng Titus của đế quốc La Mã đã đem quân sang Palestine để “bình địa”
ngôi đền thờ được xem là biểu tượng về sự hùng mạnh và thịnh vượng cũng như
lòng tin sắt đá của dân tộc Israel vào Thiên Chúa.
Tôi cũng nhớ lại, khi nói đến Đền thờ Jerusalem (nhà của
Đức Giêhova), Chúa Giê Su còn nói rằng sẽ đến lúc con người sẽ thờ phượng Thiên
Chúa trong “tinh thần và sự thật”. Thì ra, nếu có một nơi thực sự xứng đáng để
cho Thiên Chúa cư ngụ, nơi đó hẳn không phải là một công trình được xây dựng bằng
gỗ đá, mà thiết yếu phải là “tấm lòng” của con người.
Đã có một thời, văn minh Kitô giáo được tô điểm bằng những
công trình kiến trúc vĩ đại và rực rỡ là các ngôi thánh đường. Ở Âu Châu, thánh
đường mọc lên như nấm. Không biết có phải vì Thiên Chúa không còn muốn bị giam
giữ trong bốn bức tường của nhà thờ nữa chăng mà ngày nay tại rất nhiều nơi ở
Âu Châu nhà thờ ngày càng trống vắng, có nơi phải rao bán các thánh đường.
Trong khi các thánh đường ở Âu Châu ngày càng trống vắng
thì tại các nước thuộc thế giới thứ ba, người ta lại đua nhau xây dựng các
thánh đường và xây dựng với những kích cỡ vĩ đại để được đưa vào sách các kỷ lục
thế giới “Guiness World Records”. Đó là
trường hợp ngôi thánh đường có tên là “Vương cung thánh đường Đức Mẹ Hòa Bình”
tại thủ đô Yamoussoukro, Cộng hòa Côte d’Ivoire (Bờ biển Ngà), miền Tây Phi
Châu. Được khởi công xây cất năm 1985 và hoàn thành năm 1989 với kinh phí 300
triệu Mỹ kim, ngôi thánh đường này được xem như một phiên bản của Vương cung
Thánh đường Thánh Phêrô ở Roma. Theo sách các kỷ lục thế giới, đây là ngôi
thánh đường lớn nhứt thế giới, với chiều cao 158 và diện tích 30 ngàn thước
vuông, với sức chứa khoảng 18 ngàn người.
Tên tuổi gắn liền với ngôi thánh đường này là cố tổng thống
Félix Houphouet-Boigny (1905-1993). Ông là vị tổng thống đầu tiên của Cộng hòa
Côte d’Ivoire, tổng thống mãn đời từ năm 1960 đến năm 1993. Được hay tự xưng là
“cha già dân tộc”, ông tổng thống này đã chọn nơi sinh của mình là Yamoussoukro
làm thủ đô và muốn được người dân trong nước cũng như thế giới nhớ đến như là
người đã cho xây cất ngôi thành đường lớn nhứt thế giới này. Trong một bức hình
của Chúa Giêsu được vẽ trên kính bên trong nhà thờ, người ta còn thấy có cả
chân dung của ông bên cạnh!
Mặc dù dưới sự cai trị gần như là độc tài của tổng thống
Boigny, Côte d’Ivoire có một nền kinh tế tương đối ổn định hơn nhiều nước Phi
Châu khác, nhưng theo Ngân Hàng Thế Giới, cho đến năm 1993, tức năm ông Boigny qua đời, tỷ lệ dân chúng sống
dưới mức nghèo khổ đã lên đến 31 phần trăm. Do đó, công trình xây dựng ngôi
thánh đường lớn nhứt thế giới của ông đã bị rất nhiều người chỉ trích. Bị chỉ
trích là phải, bởi vì trong khi bao nhiêu người dân đang đói khổ, một kinh phí
quá lớn, dù là từ tiền túi của ông, lại được sử dụng vào việc xây cất một ngôi
thánh đường nguy nga mà mục đích là chỉ để vinh danh ông hơn là phục vụ người
nghèo. Chính vì vậy mà năm 1990, trước khi đến thủ đô Yamoussoukro để khánh
thành ngôi thánh đường này, Đức cố giáo hoàng Gioan Phao II đã đưa ra điều kiện
là bên cạnh ngôi thánh đường cần phải có bệnh viện hoặc trung tâm phục vụ người
nghèo. Phải chăng vị lãnh đạo của Giáo hội công giáo không muốn nhắn gởi rằng
chính “tấm lòng” của con người mới thực sự là nơi cư ngụ thực sự của Thiên
Chúa, chứ không phải một dinh thự nguy nga được xây cất bằng gỗ đá và nhứt là với
ý đồ khoe khoang của con người.
Mới đây, tôi cũng có nghe nói và được xem hình của ngôi
giáo đường được xem là nguy nga nhứt tại Việt Nam hiện nay. Thoạt nhìn, tôi cứ
tưởng như đây là nhà thờ chính tòa St Mary ở Sydney hoặc bất cứ ngôi thánh đường
đồ sộ nào đó ở các thủ đô Âu Châu. Được biết đây là ngôi thánh đường của giáo xứ
Bác Trạch, thuộc xã Vân Trường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, vừa được khánh
thành dạo tháng 10 năm 2013 vừa qua. Đây là một trong những nhà thờ được coi là
đẹp nhứt, cầu kì nhứt về kiến trúc và trang trí ở Việt Nam từ trước tới nay. Một
bản tin chính thức được gởi đi từ chính giáo phận Thái Bình cho biết với kinh
phí xây cất gần 60 tỷ đồng Việt Nam (chẳng là bao so với thánh đường Yamoussoukro! Nhưng so với lợi tức trung bình của người VN thì là một món tiền khổng lồ),
ngôi thánh đường Bát Trạch “có đến 122 tấm
kính tranh, gần 100 tượng tròn, phù điêu, tranh vẽ các loại, 2 tháp chuông treo
bộ chuông gồm 6 quả, trong đó quả lớn nhất có trọng lượng là 3 tấn. Ngoài sự đồ
sộ, lộng lẫy, nguy nga, nhà thờ Bác Trạch được trang trí với những nét hoa văn
rất tỉ mỉ và cầu kỳ từ cánh hoa hay đường chỉ nhỏ nhất”.
Trong một đất nước còn nghèo như Việt Nam, đặc biệt trong
tỉnh Thái Bình, xây dựng một giáo đường đồ sộ, nguy nga, lộng lẫy nhứt hẳn phải
là điều đáng suy nghĩ. Tôi không biết mình có thuộc loại “phản động” không,
nhưng sự cảm nhận tôi thường có được mỗi khi bước vào một ngôi thánh đường nguy
nga, lộng lẫy và nhứt là có nhiều tượng ảnh, thường là sự trầm trồ về kiến trúc
và nghệ thuật hơn là cảm xúc tôn giáo. Có lẽ tôi được đánh động hơn nếu bất chợt
nhìn thấy và chiêm ngưỡng dung nhan của một ông thánh hay bà thánh nào đó đã suốt
đời sống chết cho tha nhân, nhứt là người nghèo. “Tấm lòng”, nhứt là tấm lòng
hy sinh của con người có sức đánh động tôi hơn là những công trình kiến trúc đồ
sộ. Còn nếu công trình kiến trúc ấy lại gắn liền với vô số những lạm dụng và bất
công thì quả thực, tôi lại càng thấy phẫn nộ hơn.
Loch Ard Gorge, 5.2014
Trên đường trở về Melbourne sau cuộc hành trình trên
con đường “The Great Ocean Road”, có lẽ tôi chỉ còn nhớ có mỗi một hình ảnh
liên quan đến lịch sử của thắng cảnh “The Twelve Apostles”: đó là hình ảnh người
thiếu niên còn sống sót trên chiếc thuyền Loch Ard, bị đắm khi cập bến gần
Muttonbird Island ngày 1 tháng 6 năm 1878. Sau ba tháng lênh đênh trên biển từ
Anh sang Melbourne, chiếc thuyền đã bị đắm và trong số 54 người gồm thủy thủ
đoàn và hành khách, chỉ có hai người sống sót. Theo tài liệu được ghi lại tại địa
danh Loch Ard Gorge, gần nơi “trụ trì” của “12 tông đồ”, người thiếu niên 15 tuổi
tên là Tom Pearce, một thủy thủ tập sự, đã được sóng đẩy vào bờ. Nghe có tiếng
cầu cứu ngoài biển, cậu đã bơi ngược ra và đã cứu được cô gái 17 tuổi tên là
Eva Carmichael. Người thiếu niên cũng đã leo lên mỏm đá cao để làm hiệu cho cư
dân trong vùng ra tiếp cứu. Hình của Tom Pearce và Eva Carmichael vẫn còn được
gắn tại bia kỷ niệm ở Loch Ard Gorge. Người thiếu niên đã được ca tụng như một “anh
hùng” vì đã dám liều mạng để cứu sống một mạng người trong cảnh hiểm nghèo của
chính mình trong khung cảnh hoang vu và giá lạnh của nước Úc hơn 2 thế kỷ trước!
|
Một hình ảnh khác, cho tới nay, vẫn còn sống mãi trong ký
ức tôi sau chuyến du lịch dọc theo đường “The Great Ocean road”, đó là hình ảnh
của người tài xế kiêm hướng dẫn viên du lịch. Về người đàn ông trung niên tự giới
thiệu là “Barry” này, tôi chỉ có thể tóm tắt trong một tư cách nói lên trọn vẹn
con người của ông: con người tử tế! Thức dậy từ lúc 4 giờ sáng, về đến nhà vào
lúc 11 giờ khuya, vậy mà trong suốt chuyến đi, lúc nào tôi cũng thấy ông tươi
cười, vui vẻ, nhã nhặn, ân cần đối với mọi du khách. Tìm một tước hiệu xứng
đáng nhứt để tặng cho ông, tôi nghĩ đến tức khắc hai chữ “tông đồ”. Với “tấm
lòng” tử tế như thế, với riêng tôi, ông quả thực là một “tông đồ”, người cho
tôi cảm nhận được thế nào là sự tử tế. “12 tông đồ” phỗng đá rồi cũng sẽ có
ngày mai một với thời gian và ngay cả trong ký ức của tôi, nhưng “tấm lòng” của
người tài xế kiêm hướng dẫn viên du lịch này thì chắc chắn vẫn còn sâu đậm
trong tôi. Tôi vẫn xác tín rằng trên cõi
đời này, mọi thứ đều sẽ qua đi, nhưng “tấm lòng” của con người hay nói chung
tình thương mà con người dành cho tha nhân, mới thực sự là giá trị vĩnh hằng,
có sức làm cho con người trở thành bất tử.
Chu Thập 3.6.2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét