Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

Những Người Vỗ Tay



                                                                       

Ngồi hay nằm trước màn ảnh truyền hình để theo dõi World Cup, lúc nào tôi cũng thấy “ngứa ngáy”. Ngứa miệng cho nên cứ phải hò hét một mình. Ngứa tay đến độ cứ phải giơ lên, kéo xuống liên tục trước những màn gay cấn. Và nhứt là ngứa chân hầu như không chịu đựng được cho nên cứ “đá” lung tung vào không khí.
World Cup quả thực là cơn sốt hâm nóng lại tuổi trẻ của tôi. Cứ mỗi lần “chìm đắm” trong một trận đấu là tôi thấy như sống lại cái thời còn vẫy vùng trên sân cỏ.
Bóng tròn là một bản năng thứ hai của tôi. Tôi tin chắc là bản năng ấy đã “thức dậy” ngay từ trong lòng mẹ: có đứa bé nào mà không “đạp đá” khi còn là một thai nhi trong bụng mẹ! Tuổi thơ của tôi hẳn phải là tuổi của bóng đá. Thời ấy, đối với tôi chỗ nào cũng là sân banh. Ngoài sân trường ra, những thuở ruộng vừa gặt xong mùa tháng ba là sân chơi lý tưởng nhứt. Và bất cứ vật gì tròn tròn cũng đều có thể là banh đối với lũ trẻ nhà quê chúng tôi. Lúc đầu chúng tôi xử dụng những trái bưởi non vừa rụng xuống khỏi cây. Về sau, “phát kiến” thêm một chút, chúng tôi dùng giấy và ngay cả rơm rạ để cuộn lại: loại banh này rất hợp với hai bàn chân quanh năm không biết thế nào là giày dép của chúng tôi! Phải ở vào những năm cuối của bậc tiểu học, thỉnh thoảng có chút tiền túi, chúng tôi mới mua được một trái banh bằng cao su. Nhưng loại banh “trưởng giả” này lại không bền: cứ đụng vào hàng rào có gai là xì hơi. Hôm nào có đứa lượm được hay ăn cắp ở đâu đó một trái banh tennis cũ thì cứ như bắt được vàng. Thứ banh “nhà giàu” này đá mãi mà không mòn và cũng chẳng sợ bể!
Vào thời ấy, chưa có truyền hình, báo chí cũng còn là một thứ xa xí phẩm đối với trẻ con cho nên chúng tôi chỉ biết tin tức thể thao nhờ các bài tường thuật của phóng viên Huyền Vũ mà nhà văn Phan Lạc Phúc gọi là “nhà báo “nói” thể thao hiệt kiệt nhất” của Việt nam. (Phan Lạc Phúc, Tuyển Tập Tạp Ghi) Không cần có mặt trên khán đài, chỉ cần nghe qua giọng nói của ông, người ta cũng vẫn có thể biết được cục diện của trận đấu lúc đó như thế nào. Lũ trẻ chúng tôi cũng biết kê sát tai vào cái máy “ra dô ấp chiến lược” của thời tổng thống Ngô Đình Diệm để biết Việt nam cộng hòa lúc đó có những đội banh nổi tiếng như Cảnh Sát và AJS, cũng như thuộc tên một số danh thủ được người lớn gọi là một cách thân thương là “thằng” như thằng Rạng, thằng Quới, thằng Vinh, thằng Ngôn…Dĩ nhiên, những “thằng” ấy cũng trở thành thần tượng của lũ trẻ chúng tôi. Thằng nào bắt gôn giỏi đương nhiên phải là “thằng Rạng”, thằng nào biết lừa và sút mạnh phải là “thằng Ngôn” v.v…
Lên bậc trung học, chân cẳng bắt đầu có “cựa”, cùng với nghệ thuật nhồi banh ngày càng già dặn hơn, tôi lại thấy nẩy sinh một nhu cầu không thể thiếu của bóng tròn: đó là nhu cầu phải có khán giả. Không gì mất hứng và nhàm chán cho bằng một trận thi đấu mà không có khán giả. Hồi đó, gần sân banh tôi thường tập dượt có một trường nữ trung học. Chỉ cần thấy một bóng áo dài thấp thoáng là chúng tôi đá “chết bỏ” luôn, chứ đừng nói đến những trận đấu có đông khán giả. Gà thì hơn nhau tiếng gáy, các cầu thủ có khi hơn nhau chỉ vì tiếng cổ võ reo hò của khán giả.
Khán giả của bộ môn thể thao nào dường như không ít thì nhiều cũng “tàn nhẫn”. Năm 1985, tôi được đến thăm kinh thành “muôn thuở” Roma. Một trong những di tích gây ấn tượng mạnh nhứt nơi tôi là Hí trường cổ “Coliseum”. Đây là vết tích của thời văn minh cực thịnh của đế quốc La mã, nhưng đồng thời cũng là biểu tượng của những gì là tàn bạo, độc ác, dã man nhứt trong bản tính con người. Những ai đã xem cuốn phim “Gladiator” (Giác Đấu) do tài tử gạo cội của Úc đại lợi là Russell Crowe thủ diễn hẳn đã có một ý niệm về trung tâm “giải trí” độc ác của đế quốc La mã này. Với chiều cao khoảng 64 thước và với 80 lối ra vào, Hí trường Coliseum có thể chứa đến 45 ngàn khán giả. Phần lớn những màn trình diễn tại đây đều là những cuộc tỉ thí của các võ sĩ giác đấu. Họ là những người nô lệ, các tù nhân hay ngay cả những võ sĩ thiện nguyện. Bước vào Hí trường là bước vào cửa tử, cho nên trước khi các trận đấu khai mạc, các võ sĩ thường phải đến trình diện trước hoàng đế và nghiêng mình chào: “Ave Cesar, morituri te salutant” (Muôn tâu thánh thượng, những kẻ sắp chết kính cẩn bái chào Ngài)
Trong những thế kỷ đầu của công nguyên, ngoài các cuộc thi đấu của các võ sĩ giác đấu, các tín hữu Kitô cũng trở thành vật tế thần trong các cuộc vui: người ta  ném họ vào Hí trường để các sư tử xâu xé. Mãi cho đến thế đầu thế kỷ thứ 5, khi Kitô giáo hầu như trở thành quốc giáo trong toàn đế quốc, những cuộc thi đấu và giải trí “chết người” này mới chấm dứt.
Ngày nay, Hí trường Coliseum chỉ còn là một di tích hoang tàn, những khán giả “độc ác” vỗ tay vui cười trước cảnh máu đổ thịt rơi không còn nữa. Nhưng mỗi lần nhìn khán giả trong một trận đấu quyền Anh hay bất cứ môn võ tự do nào, tôi đều liên tưởng đến những cuộc thi đấu tại Hí trường Coliseum của thời đế quốc La mã. Vẫn còn có những khán giả “mua vui” bằng những màn đấm đá đến chết người như thế và cũng còn có những người sống nhờ bằng tiếng cổ võ reo hò của người khác như thế.
Xét cho cùng, trong thể thao, khán giả là một yếu tố then chốt. Những lúc theo dõi các trận thi đấu của World Cup, tôi thường có ý nghĩ: dù tôi chỉ ngồi đơn độc một mình trước màn ảnh truyền hình, tôi cũng góp phần quan trọng vào biến cố này. Dĩ nhiên, “không mợ thì chợ cũng đông.”  Nhưng nếu không có tôi, nếu không có hàng tỷ người trên khắp thế giới thức khuya dậy sớm, nếu không có cái đám đông những người chịu bỏ tiền ra để lặn lội sang tận bên Nam Phi, thì World Cup sẽ chẳng có ý nghĩa gì.
Xét cho cùng thì trong bất cứ bộ môn nghê thuật nào, nếu không có khách thưởng lãm thì chẳng có “ngôi sao” nào chiếu sáng được cả. Không có những người chi tiền ra để mua vé đi xem thì làm gì có những Woods, những Federer, những Nadal, những Sarapova, những Henin…Không có những đám đông “tung hô” thì làm gì có những thần tượng như Elvis Presley, như Michael Jackson. Không có những người chịu bỏ vé đi xem chiếu bóng thì làm gì có những tài tử nổi tiếng.
Người ta thường chỉ thấy các ngôi sao mà không nghĩ đến cái nền trời trong vắt xung quanh. Nó vô hình nhưng lại rất cần thiết. Một hôm, một em bé mẫu giáo hớn hở về nhà khoe với mẹ: “Mẹ ơi, hôm nay con được đóng kịch.” Người mẹ hỏi: “Con đóng vai gì trong vở kịch?” Đứa bé giải thích: “Cô giáo bảo chúng con “vỗ tay” khi các bạn trình diễn.” Vỗ tay cũng là một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn nghệ. Không có tiếng vỗ tay thì buổi trình diễn văn nghệ cũng nhạt nhẽo và người trình diễn cũng không tìm được hứng khởi.
Tôi thường có ý nghĩ ấy mỗi khi tham dự một buổi văn nghệ. Trong một dàn nhạc, bất cứ một nhạc khí nào cũng đều có vai trò và tầm quan trọng riêng của nó. Nhờ các thứ tiếng đệm mà tiếng Solo của những nhạc cụ chính mới nổi lên. Nhưng dĩ nhiên, cần phải có đủ sự thính tai để nhận ra tầm quan trọng của những thứ tiếng đệm ấy.
Trong cuộc sống, có khi cũng phải có một nhận thức tinh tường để thấy được những điều vốn không được hay ít được chú ý đến.
Một du khách nọ dừng chân trước một công trường xây cất. Ông đến trò chuyện với ba người công nhân. Người thứ nhứt kể lể: “Tôi phải nhọc nhằn như thế này mà vẫn không đủ tiền để nuôi sống vợ con.” Người thứ hai hằn học hơn: “Bọn công nhân chúng tôi phải quần quật suốt ngày giữa nắng nôi trong khi cái đám cai thầu thì cứ đứng khoanh tay.” Nhưng người du khách ngạc nhiên không ít khi được nghe người công nhân thứ ba hãnh diện nói: “Tôi đang góp công xây dựng một trong những bệnh viện tối tân nhứt.”
Cả ba người công nhân trên đây đều nhìn không sai về thực tại. Trong cuộc sống, chúng ta thường chỉ thấy điều chúng ta muốn thấy. Muốn vạch lá tìm sâu thì sâu chẳng bao giờ thiếu. Nhưng điều ngược lại cũng đúng. Nếu chúng ta muốn tìm điều phi thường trong cái tầm thường, chúng ta cũng sẽ dễ dàng tìm thấy nó.
Cũng một công việc, nhưng ý nghĩa và tầm quan trọng tùy ở cách nhìn của con người. Cũng một công việc, nhưng có người chỉ thấy gánh nặng và phiền toái, có kẻ nhận ra ý nghĩa và vai trò của mình. Cũng một con người, có kẻ chỉ thấy sự vô duyên bất tài, có người lại nhận ra tài năng, vẻ đẹp hay sự duyên dáng.
Một trong những điểm thu hút sự chú ý của tôi nhứt trong World Cup đó là thành phần gốc Phi Châu của một số đội tuyển như Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Hòa Lan…đó là chưa kể đến nhiều đội tuyển Châu Mỹ La tinh. Cách đây hơn 200 năm, liệu những người gốc Phi Châu này có thể được xem là những đứa con cưng đại diện cho những quốc gia có đa số người da trắng không? Trong tác phẩm “Lettres Persanes” (Thư gởi từ Ba Tư), triết gia Pháp Montesquieu vào thế kỷ thứ 18 đã phải mỉa mai viết rằng họ “đen” đến độ làm sao có thể tưởng tượng được họ có một linh hồn?  Viết như thế triết gia này chỉ muốn lên án thái độ khinh miệt của người thực dân da trắng đối với những người nô lệ da đen. Sở dĩ có những con người bị bắt phải làm nô lệ cho người khác là vì nhân phẩm của họ bị tước đoạt và bị giáng cấp thành súc vật. Phải mất hằng bao thế kỷ nhân loại mới mở mắt để nhận ra rằng dù có đần độn, nghèo cùng, thấp hèn đến đâu mọi người đều được Thượng Đế sinh ra bình đẳng như nhau.
Dù đứng “vỗ tay” từ khán đài hay chỉ âm thầm theo dõi qua màn ảnh truyền hình, tôi vẫn nhận ra rằng mình có một vai trò quan trọng trong các cuộc thi đấu. “Vỗ tay” suy ra cho cùng, đó là một hình thức công nhận và ngợi khen giá trị của người khác. Ai cũng muốn được người khác nhìn ra giá trị của mình và chính sự nhìn nhận ấy mang đến cho họ sự phấn khởi và tự tin. Tôi “vỗ tay” cho những cú banh đẹp như sao xẹt, nhưng đồng thời tôi cũng “vỗ tay” cho những người lao công phải âm thầm dọn dẹp rác rưới, chỉnh trang mọi sự sau mỗi trận đấu, sẵn sàng cho trận kế tiếp. Tôi “vỗ tay” cho những người dân nghèo Nam Phi phải hy sinh quá nhiều cho World Cup mà vẫn vui vẻ.
Sự kiện Nam Phi được chọn để tổ chức World Cup 2010 lần này chắc chắn có một ý nghĩa đặc biệt và không biểu tượng nào tại World Cup này cao cả cho bằng hình ảnh của cựu tổng thống Nelson Mandela, người đã bị giam tù 27 năm vì tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen tại Nam Phi. Sự kiện này gởi đi cho thế giới một thông điệp thật rõ ràng: mọi người đều sinh ra bình đẳng và mỗi người có một phẩm giá, một chỗ đứng và vai trò độc nhứt vô nhị trong lịch sử nhân loại.
Đó là “tín điều” mà tôi cũng muốn tuyên xưng trong World Cup này.
Suy nghĩ xa hơn, tôi cũng phải nhìn nhận rằng dù có đần độn, ngu dốt, xấu xí, tàn tật, nghèo hèn đến đâu, người nào cũng có một chỗ đứng quan trọng trong “sân đấu” của cuộc đời. Có người hiện diện để cổ võ khích lệ tôi. Có người gợi lên những tình cảm tốt đẹp nhứt trong tôi. Có người thách đố sự thành thật, tính kiên nhẫn, sự tự trọng, lòng cảm thông và tha thứ của tôi. Không một người nào mà không có một cách nào đó nhắc nhở tôi phải sống cho ra người tử tế hơn.
“Tín điều” trên đây cũng mang lại niềm an ủi và lòng can đảm cho tôi. Giá trị của con người không nằm ở quyền lực, địa vị, tiền của hay danh vọng. Không phải ai cũng có thể trở thành “vĩ nhân” được mọi người biết đến. Nhưng mọi người, dù bất tài hay chẳng đạt được thành tựu vẻ vang nào trong cuộc sống, cũng đều có thể là những con người “vĩ đại” vì dám sống một cách phi thường những bổn phận âm thầm, độc điệu, vô danh, nhỏ bé và phiền  toái mỗi ngày của mình. Đó hẳn phải là “trận đấu” cam go và đồng thời cũng là “những đường banh đẹp” nhứt trong cuộc đời của họ.

 Chu Thập, World Cup 2010






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét