Tôi thích mùa Thu
ở Úc: không nóng như mùa Hè, không lạnh như mùa Đông và cũng không có nhiều phấn
hoa khiến phải “hắt xì” liên tục như mùa Xuân.
Mùa Thu đến với
tôi như một “giấc mơ trở thành hiện thực”,
bởi vì ở quê tôi không có mùa Thu. Cho đến khi bỏ nước ra đi, tôi chỉ biết có
hai mùa mưa - nắng và nóng - lạnh. Tôi chỉ biết mùa Thu qua sách vở.Tôi chỉ cảm
mùa Thu qua thi ca.Tôi chỉ thấy mùa Thu qua tranh vẽ.Tôi chỉ nghe mùa Thu qua
âm nhạc. Với tôi, hình ảnh “con nai vàng
ngơ ngác đạp trên lá vàng khô” hay
“mưa giăng lá đổ” chỉ có trong mơ.
Mãi cho đến
tháng 10 năm 1982, tôi mới thực sự “sờ sẫm”
được mùa Thu. Đến Pháp lần đầu tiên khi trời bắt đầu vào Thu, tôi đã đứng ngây
ngất bên bờ sông Seine, nhìn ngắm những chiếc lá vàng bay xuyên qua những giọt
mưa phùn rơi lất phất. Tôi thấy như mình đang mơ. Ước mơ được “biết” thế nào là
mùa Thu đã trở thành hiện thực. Nhưng mùa Thu đẹp và “quyến rũ” quá đến độ tôi cứ tưởng như mình đang mơ.
Tôi nhớ nhứt là
chuyến đi từ thành phố Clermont Ferrand, thủ đô của bánh xe Michelin, đến thành
phố Limoges, nơi sản xuất đồ gốm nổi tiếng của nước Pháp. Cả hai thành phố này
đều nằm ở miền Trung nước Pháp. Đến một quãng đường nằm giữa hai thành phố, khi
mặt trời vừa lên, một người bạn cho dừng xe lại và chỉ vào một cánh đồng trước
mặt: phía sau đồng cỏ là một khu rừng rực rỡ với đủ mọi mầu sắc của mùa Thu.
Người bạn giải thích rằng đây là khu rừng nổi tiếng thường được các họa sĩ tài
ba của nước Pháp tìm đến để vẽ cảnh mùa Thu. Tôi thốt lên: “cảnh này còn đẹp
hơn cả tranh vẽ”.
“Ghiền” cảnh mùa
Thu ở nước Pháp, mỗi lần đi Mỹ hay Canada, tôi cũng thường lựa đi vào mùa Thu,
cốt chỉ để được ngắm những khu rừng đủ mầu sắc của mùa Thu. Mỹ và Canada quá rộng
lớn. Với tôi, chỉ nội tiểu bang Ohio của Mỹ hay tỉnh Ontario của Canada cũng đủ
để là một bức họa nhỏ cho mùa Thu trên khắp thế giới.
Úc không có mùa
Thu đẹp bằng các nước ôn đới khác. Gia đình họ “tràm”, thường được gọi là Gum
Trees, chiếm trọn các khu rừng của Úc, khiến cho cảnh lá vàng rơi chỉ có ở một
vài nơi ưu biệt. Muốn thực sự “cảm” được mùa Thu ở Úc, phải đi mãi lên thủ đô
Canberra, Blue Mountains hay kẹt lắm tìm đến mấy khu nhà giàu ở vùng North
Shore Sydney là nơi có trồng nhiều cây maple.
Sau nhà tôi là một
lâm viên quốc gia chỉ toàn cây tràm và lác đác vài cây thông và dương liễu. Nếu
không có một chút gió heo may thì khó mà thấy được mùa Thu về khi bước vào tháng
Ba. Cũng may, đằng sau nhà, người chủ cũ đã trồng được vài cây maple, nên tôi
có được chút “mùa Thu bonsai”. Từ phòng ngủ nhìn ra, tôi đã “cảm” được mùa Thu
khi thấy lá của loại cây này đã bắt đầu “hườm
hườm” chuyển sang mầu vàng và mầu đỏ tía. Không nhứt thiết phải là văn thi
sĩ hay họa sĩ mới cảm được mùa Thu. Mùa Thu luôn là mùa “gợi cảm” đối với mọi người. Làm sao nhìn cảnh “lá rụng về cội” mà không nghĩ đến thân phận sớm nở tối tàn của kiếp
người? Làm sao nghe một cơn “gió heo may”
mà không liên tưởng đến tuổi già đang đến?
Mượn câu “Gió heo may đã về” trong một ca khúc của
Trịnh Công Sơn để làm tựa, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã viết lên những suy tư của ông
về cái tuổi “hườm hườm” ấy như sau: “Một
sớm mai thức dậy, người uể oải, nặng nhọc, bước vào phòng tắm, nhìn vào gương
soi, ngỡ ngàng như vừa gặp một người quen mà không nhớ là ai, nhìn tới nhìn lui
mới nhận ra chính là ta đó. Ta mà như không ta. Ta bỡ ngỡ như ở cái tuổi mới lớn
năm nào, chợt cao lên, chợt lớn lên và lạ lẫm với chính mình, chân tay lọng cọng
như thừa như thiếu, mà mày thanh mắt sáng, mà muốn làm nghiêm cũng thấy như tủm
tỉm cười. Còn giờ đây, cũng bỡ ngỡ lạ lẫm với chính mình mà thử nhích khóe môi
tìm lại nụ cười chợt thấy khó khăn. Niềm vui thì vẫn vậy sao mắt môi như trĩu nặng.
Một nếp xếp đã đậm theo vòng cung khóe miệng, những dấu chân chim đã hằn trên
khóe mắt. Và kia, một vài nhánh tóc đã nhạt phai, khô quắt, mỏng tanh. Bỗng
dưng thèm vẽ lại tức khắc khuôn mặt xa lạ mà thân quen trước kia khi tắm táp, để
rồi mày râu nhẵn nhụi lao vào công sở hay đến giảng đường, xí nghiệp, công ty…Rồi
ngắm nghía mình, nghĩ ngợi mình, rình rập mình, mới hay, đã khá lâu rồi không
còn dõi theo ta nữa, đã lâu rồi phải lao vào bao nỗi lo toan, đã lãng quên cả
chính mình….Chợt nhớ ra đã có lúc nào kia, phải chú ý lắng tai hơn nữa để nghe
người nói, có khi phải hử hả đôi lần. Có cái gì ở tai ta vậy. Rồi một lần kia,
cầm tờ báo thân quen lên đọc bỗng cứ thấy phải đẩy dần tờ báo ra xa, xa chút nữa,
rồi chỉ đọc được những cái tựa, những dòng to…Rồi có lúc chợt quên mất tên một
người quen, quá quen. Quên cái tên thôi còn thì nhớ tất cả. Khi cần nhớ thì
quên mà khi cần quên thì nhớ. Nhớ rất kỹ những chuyện xưa cũ…Tính tình cũng đâm
ra cáu gắt. Chuyện không đáng gì sao cũng quạu. Lại trách cứ. Lại giận hờn. Lại
ngờ vực. Lúc nào cũng nói “tôi già rồi, tôi già rồi” như để được nghe mọi người
nói “không, chưa già, vẫn trẻ”. (Đỗ Hồng Ngọc, Cành Mai Sân Trước)
Mùa Thu không chỉ
gợi nhớ tuổi già, mà còn là mùa của hy vọng. Thời gian qua đi nhanh chóng và những
mất mát trong cuộc đời dễ làm cho con người tìm đến những gì là bền vững để bám
víu.
Mỗi lần nhìn lá
mùa Thu đổi mầu hay rơi rụng, tôi thường đọc lại những suy nghĩ của một nhà
lãnh đạo nổi tiếng trong Giáo hội công giáo tại Hoa kỳ là đức cố hồng y Joseph
Bernadin, tổng giám mục Chicago, qua đời hồi năm 1997. Trong ba năm cuối đời, vị
hồng y này vừa phải chống chọi với bệnh ung thư tụy tạng lại vừa phải đương đầu
với một vụ cáo gian về lạm dụng tình dục. Vậy mà trong cuốn sách có tựa đề “The gift of peace” (món quà bình an) được
ngài hoàn thành đúng hai tuần lễ trước khi qua đời, vị hồng y này khẳng quyết:
“Tâm hồn tôi tràn ngập niềm vui. Tôi cảm
thấy bình an”
Trong trang cuối
của cuốn sách, đức cố tổng giám mục Chicago chia sẻ như sau: “Hôm nay là ngày 1 tháng 11 và mùa Thu đang
nhường chỗ cho mùa Đông. Không bao lâu nữa, những chiếc lá rực rỡ sẽ rụng xuống
khỏi cây và tuyết sẽ phủ đầy mặt đất. Mặt đất sẽ đóng kín và con người sẽ chạy
đôn chạy đáo để tìm kiếm hơi ấm. Mùa đông ở Chicago thật khắc nghiệt. Đây là thời
gian để chết.
Nhưng
chúng ta biết rằng mùa xuân sẽ đến với tất cả sự sống mới và kỳ diệu của nó.
Chắc
chắn tôi sẽ không còn sống trong mùa xuân tới. Nhưng tôi sẽ cảm nghiệm một sự sống
mới bằng một cách khác. Cho dẫu tôi không biết mình đang chờ đợi điều gì trong
cuộc sống mai hậu, nhưng tôi biết rằng Thiên Chúa đã kêu gọi tôi phục vụ Ngài bằng
tất cả khả năng của tôi trong cuộc sống dương thế này. Giờ đây Ngài đang gọi
tôi trở về nhà.
Nhiều
người đã xin tôi nói cho họ biết về thiên đàng và cuộc sống mai hậu. Lời thỉnh
cầu này đôi khi khiến tôi mỉm cười, bởi vì tôi cũng chẳng biết gì hơn…
Lần
đầu tiên, khi cùng với mẹ và chị đi về quê cha đất tổ ở miền Tonadino di
Primiero, bắc Ý, tôi cảm thấy như tôi đã từng ở đó rồi. Sau nhiều năm xem cuốn
album hình của mẹ tôi, tôi đã làm quen với núi, với đất, với nhà cửa, với con
người ở đó. Do đó, khi vừa bước vào thung lũng, tôi đã reo lên: “Chúa ôi, tôi
đã biết nơi này rồi.Tôi đã về đến nhà mình”. Một cách nào đó, tôi nghĩ rằng
mình cũng đang đi từ cuộc đời này vào cuộc sống vĩnh cửu như thế. Tôi sẽ về
nhà.
Điều
tôi muốn trối lại là cầu xin cho mỗi người trong các bạn tìm được điều mà tôi
đã tìm thấy: đó là quà tặng đặc biệt của Chúa cho mỗi người chúng ta: quà tặng
đó là sự bình an. Nếu chúng ta được bình an, chúng ta sẽ được tự do để sống
sung mãn ngay cả trong những giờ phút đen tối nhứt” (Joseph
Bernadin, The Gift of Peace )
Đọc lại “chúc
thư” trên đây của vị hồng y này ở những ngày đầu Thu, rồi chợt “nhìn những mùa thu đi” qua trong cuộc đời,
tôi cảm thấy khao khát “ơn bình an”
vô cùng. Giữa cuộc đời qua đi như hoa sớm nở tối tàn này, làm sao có được cái
tâm an bình để đứng vững trước bao sóng gió, “vật đổi sao dời” này: đó là điều
tôi hằng mong ước. Chợt nhớ lại câu chuyện về một họa sĩ nọ có hai môn sinh
đang theo học. Một hôm ông lấy “sự bình an” làm đề tài sáng tác cho hai người
môn sinh. Một người liền vẽ ngay một bức tranh cổ điển quen thuộc với một mặt hồ
Thu phẳng lặng. Anh lấy làm đắc chí: một khung cảnh tĩnh mịch như thế làm sao
không gợi lên sự an bình?
Người học trò thứ
hai vò đầu nát óc để rồi cuối cùng vẽ ra một bức tranh lạ thường: giữa một dòng
thác đổ cuồn cuộn, anh cho mọc lên một cây lớn. Trên một cành khẳng khiu nằm vắt
vẻo gần dòng thác, anh vẽ một tổ chim thật nhỏ. Ở đó, có những con chim non
đang ríu rít đón nhận thức ăn được mớm từ con chim mẹ.
Người thày đã
đánh giá đây là bức tranh thực sự nói lên được ý nghĩa đích thực của hai chữ
bình an: bình an giữa sóng gió của cuộc đời!
Xin cám ơn luật
sư Trịnh Hội đã nhắn gởi cho độc giả báo Người Việt, trong đó có tôi, một số lời
khuyên mà gia đình của anh từ Úc đã gởi đến cho anh. Đây là những lời khuyên về
sự “An Lạc”, được anh ghi lại trong
bài viết có tựa đề “Thời Gian” đăng trên báo Người Việt trong một số ra gần
đây:
“- Hãy đừng so sánh bạn với một ai cả vì làm
như thế là bạn đã tự coi thường chính mình.
-
Không có một ổ khóa nào được làm ra mà không có chiếc chìa khóa để mở nó ra. Vì
vậy, Tạo Hóa cũng sẽ không bao giờ mang đến bạn bất cứ một vấn đề gì mà không
có cách giải quyết riêng cho nó.
-
Hãy chấp nhận khi bạn mất mát. Hãy im lặng khi bạn thành công. Và hãy vui lên
khi bạn chiến thắng được chính mình.
-
Không ai có thể quay lại quá khứ để thay đổi những lỗi lầm của chính mình.
Nhưng ta có thể bắt đầu ngay bây giờ nhận ra những lỗi lầm của mình để tránh những
sai phạm trong tương lai.
-
Cuộc đời vẫn mỉm cười khi bạn đang đau khổ. Và nó cũng mỉm cười khi bạn đang hạnh
phúc.Vì vậy, bạn hãy mỉm cười dù có được hạnh phúc hay đang gặp đau khổ.
-Ai trong chúng ta cũng có thể không chấp nhận sự phiền não. Nhưng muốn không phiền não, bạn phải biết chấp nhận. Vì tình thương trong ta là một tài nguyên không bao giờ cạn. Và nó chỉ tăng thêm khi ta mang ra hiến tặng cho người.
-Ai trong chúng ta cũng có thể không chấp nhận sự phiền não. Nhưng muốn không phiền não, bạn phải biết chấp nhận. Vì tình thương trong ta là một tài nguyên không bao giờ cạn. Và nó chỉ tăng thêm khi ta mang ra hiến tặng cho người.
-Chúng
ta thường rất dễ dàng phê phán một khuyết điểm nhỏ của người khác. Nhưng lại rất
khó nhận ra lỗi lầm lớn của chính chúng ta. Bởi thế, trí tuệ chỉ sẽ được hình
thành từ sự nhận ra và sửa chữa lỗi lầm của chính mình.
-
Hãy là tấm gương soi rọi cho chính bản thân mình. Vì chỉ khi ấy thân bạn mới
an.Và tâm bạn mới lạc” (Trịnh Hội, Thời Gian, Người Việt on
line 7/3/2010)
Dù mùa Xuân có lộng lẫy cách mấy, dù mùa Hạ có rực rỡ cách mấy, hay dù mùa Đông có trắng xóa cách mấy, với tôi, vẫn không thể nào sánh bằng màu sắc đẹp đẽ và hài hòa của mùa Thu. Đời người cũng vậy. Tuổi “vào Thu” là tuổi mà đa số trong chúng ta con cái đã thành đạt, công danh, nợ nần đã trang trải, gân cốt tuy không như thời trai trẻ nhưng sức khỏe vẫn còn và nhất là thì giờ thì…thoải mái. Tuổi “vào Thu” cũng là lúc mà người ta dẹp bớt mưu sinh để dấn thân vào các việc thiện nguyện, tìm ra ý nghĩa cuộc đời. Chiếc lá dù đã chuyển màu, nhưng ngày nào còn ở trên cành thì vẫn còn tận tình vui chơi với nắng mưa sương gió. Cám ơn chiếc lá vàng đã dạy cho tôi một cách tận hưởng cuộc sống để có được “ơn bình an” trong mùa Thu này.
Chu Thập 15.3.2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét