Nhiều lúc, tôi không
biết mình có phải là người “bình thường” không, bởi vì tôi thích vào nghĩa
trang.
Lúc nhỏ, tôi thường
theo lũ bạn chăn trâu vào nghĩa trang để trốn học. Nghĩa trang ở làng quê thường
nằm giữa cánh đồng, có những cây lớn rợp bóng mát, có cỏ hoang mọc um tùm.Vào nghĩa
trang trốn học “an toàn” đã đành, mà “bắt dế” thì lại lý tưởng hơn bất cứ nơi
nào. Lũ trẻ chúng tôi tin rằng những con dế sống trong nghĩa trang đều là những
con “dế chiến”.
Ở tuổi biết buồn
và bắt đầu có những suy nghĩ vụn vặt về cuộc sống, ngoài những dịp đưa tiễn bạn
bè người thân đến nơi an nghỉ cuối cùng hay tảo mộ người thân vào những dịp đặc
biệt như Tết hay ngày tưởng nhớ người quá cố, tôi thường tìm đến nghĩa trang để sống lại những ngày thơ ấu hoặc
tìm một chút thanh thản cho tâm hồn.
Đến bất cứ nơi
nào, ánh mắt của tôi cũng đều tìm kiếm và dừng lại thật lâu trên nghĩa
trang.Tôi thích nhứt nghĩa trang ở một thành phố nhỏ gần Copenhagen, Đan mạch.
Tôi được một người bạn đưa đến đó để thăm viếng thân mẫu của anh. Trái với những
nghĩa trang đầy những ngôi mộ đủ kích cỡ, kiến trúc và mầu sắc mà tôi thường thấy
ở Pháp hay Ý, nơi yên nghỉ của thân mẫu bạn tôi chỉ là một vườn hoa sặc sỡ.
Không có lăng tẩm, không có những ngôi mộ bề thế khoa trương, mà chỉ có những
thảm hoa bằng phẳng. Bốn bề nghĩa trang được bao bọc bởi những cây liễu “rũ” mà
một vị giáo sư Pháp văn của tôi ngày xưa mô tả như bóng dáng của những người phụ
nữ xõa tóc đang khóc. Tiếng nhạc cổ điển nho nhỏ như muốn dìu bước khách lãng
du đi vào một thế giới khác.
Nghĩa trang
Rockwood ở Lidcomb, Sydney cũng là một nơi quyến rũ tôi. Nghĩa trang được xem
là lớn thứ nhì trên thế giới này chẳng khác nào một thành phố nhỏ. Những lần đầu
tiên vào đây, tôi thường hay lạc lối, đi mãi mà không tìm được lối ra.
Với bất cứ một
người quá cố trong bất cứ một nghĩa trang nào, tôi cũng đều có cảm nhận ấy. Đi
giữa một nghĩa trang nào, tôi luôn được nghe họ nói với tôi rất nhiều điều. Họ
lập lại với tôi điều mà lẽ khôn ngoan của bất cứ dân tộc nào, nền minh triết ở
bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng đều mách bảo tôi: giàu sang hay nghèo hèn,
quyền thế hay thấp hèn, thông minh hay ngu dốt, xinh đẹp hay xấu xí… khi nhắm mắt
xuôi tay mỗi người cũng chỉ còn lại ba tấc đất. Một số bậc vua chúa được người
ta chôn cất trong lăng tẩm, một số người quyền thế được người ta ướp xác và đặt
lên bệ thờ. Nhưng tất cả những người quá cố trong bất cứ một nghĩa trang nào
cũng đều mượn lời Kinh Thánh của Do thái giáo và Kitô giáo để nói với tôi rằng
“tuy họ lấy tên mình mà đặt cho miền này
xứ nọ, nhưng ba tấc đất mới thật là nhà, nơi họ ở muôn đời muôn kiếp”.
Những người quá
cố trong bất cứ nghĩa trang nào cũng nói với tôi rằng trên dương thế này, người
ta có thể hận thù nhau đến độ không muốn đội trời chung với nhau, nhưng khi nhắm
mắt xuôi tay, ai cũng đều buông khí giới và nghỉ yên bên nhau: chẳng còn phải
tranh giành cãi cọ, chém giết nhau nữa!
Nằm san sát bên
nhau, dường như từ bên kia nấm mồ, những
người đã khuất núi chỉ muốn nhắn nhủ tôi rằng, xét cho cùng, con đường nào cũng
dẫn đến nghĩa địa, cuộc sống nào cũng hướng đến tận cùng là nơi an nghỉ, ý nghĩa của cuộc
sống rốt cục cũng chỉ qui về hai chữ “Yêu
thương”.
Đây hẳn phải là
điều mà con người thường nhận thức được khi đã đi đến cuối cuộc hành trình
dương thế. Tôi nhớ lại những tiếng nói cuối cùng của các nạn nhân trong cuộc khủng
bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa kỳ. Trong những giây phút cuối đời, khi gọi
về cho người thân, những người mắc kẹt trong Tháp Đôi ở New York hay đang phải
hấp hối từng phút từng giây trên chiếc máy bay bị những kẻ khủng bố khống chế…đều
chỉ lập lại một câu duy nhứt “I love you”: con yêu thương ba má, anh yêu em, em
yêu anh, ba thương con…Những người này chợt nhận ra rằng trong cuộc đời này, chỉ
có một điều thiết yếu và quan trọng là yêu thương, chỉ có tình yêu mới mang lại
ý nghĩa và làm cho cuộc sống này đáng sống.
Trong nghĩa
trang, con người không chết. Họ chỉ là những người đã khuất núi. Họ đã đi qua
bên kia ngọn núi. Giờ đây, quay nhìn lại, họ thấy rõ lộ trình của cuộc sống. Họ
nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Họ muốn nhắn gởi với chúng ta rằng cuộc
sống chỉ thực sự đáng sống khi con người biết sống yêu thương.
Tôi thường nghe
được thông điệp ấy mỗi khi vào nghĩa trang, mỗi ngày đầu năm khi tưởng nhớ người
quá cố và đặc biệt mỗi khi tháng 11 về. Văn minh Kitô giáo dành tháng này để tưởng
nhớ người quá cố.
Sống yêu thương
và để cho người khác cùng được sống: đó là thông điệp mà tôi nghe rõ nhứt từ
bên kia những nấm mồ trong các nghĩa trang. Sống như thế nào để không bị nguyền
rủa vì đã xúc phạm đến sự sống và quyền được sống của người khác: đó hẳn phải
là cách thế tưởng nhớ mà người quá cố vui thích nhứt.
Tôi có ý nghĩ ấy
khi đọc lá thư mới đây của một nhà lãnh đạo tôn giáo tại Việt nam là đức giám mục
Vĩnh Long gởi cho các tín hữu trong giáo phận của ngài. Lá thư được gởi đến cho
toàn thể giáo phận vào dịp khởi đầu tháng 11 là tháng được truyền thống Kitô
giáo dành riêng để tưởng nhớ người quá cố.
Mở đầu lá thư, vị
giám mục này viết: “Mỗi năm, bước vào
tháng chín, tôi nhớ tới biến cố ngày 7.9.1977,được kể như ngày Đại Nạn của địa
phận Vĩnh Long, khi Nhà thờ chánh tòa, đại chủng viện, dòng Thánh Phaolô thành
Chartres, Thánh gia học viện bị phong tỏa và sau đó, mọi người phải ra đi, kẻ
vào tù, người thì được dời đi nơi khác. Ôi thôi! Đất bằng dậy sóng, những nơi
tu hành bấy giờ bị coi như chỗ đào tạo phản cách mạng. Tội danh ấy tới nay vẫn
chưa được chứng minh. Có những người đã chết, mang theo xuống mồ cái tội danh
giả mạo ấy…”
Rồi nhắc đến
chuyện chính quyền Vĩnh Long cướp đoạt
phần đất trước kia là của các nữ tu dòng Phaolo để xây quảng trường, biến thành
điều được gọi là “lá phổi xanh cho nhân
dân sống trong nội ô thành phố Vĩnh Long”, đức giám mục Vĩnh Long viết: “Tôi chợt nhớ tới Công Viên Cây Xanh ở đường
Nguyễn thị Minh Khai, trước kia là Đất Thánh. Tôi nghĩ đến rất nhiều thân nhân
của anh chị em Công giáo đang còn bị chôn vùi trong lòng đất, bên dưới công viên
này và hơn 30 năm qua, hằng ngày có nhiều người lui tới chắc chắn không phải để
thắp hương cầu nguyện, báo hiếu, nhưng chỉ để vui chơi và vô tình dẫm lên nơi
an nghỉ của tiền nhân chúng ta. Như thế có đau lòng không!”
Quả thật, người
chết không thể “ngậm cười nơi chín suối”, mà người sống lại càng không thể “vui
cười” khi nơi thánh thiêng nhứt là nghĩa trang không còn được tôn trọng.
Tôi nhớ lại một
nhận xét thâm thúy của một người bạn sau một chuyến du lịch tại Trung Quốc. Anh
không bị choáng ngợp vì sức phát triển kinh tế nhanh chóng của quốc gia cộng sản
khổng lồ này. Anh nói: “Có hai điều hiếm thấy tại Trung Quốc: một là nụ cười,
hai là nghĩa trang”.
Cứ tưởng “buồn”
và “đìu hiu” là hai tĩnh từ chỉ đi theo sau hai chữ “nghĩa trang”, cứ tưởng nụ
cười và nghĩa trang chẳng ăn nhập gì với nhau. Thật ra, khi nghĩa trang bị đào
bới, khi người chết bị xúc phạm, khi tình cảm của người sống không được tôn trọng,
khi mạng sống và các quyền cơ bản nhứt của
con người bị xem nhẹ hơn rơm rác, khi tình nghĩa giữa người với người phải
nhường chỗ cho tham lam, ích kỷ, gian dối…thì đương nhiên nụ cười làm sao còn đất
sống.
Có khi phải vào
nghĩa trang để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, để học biết thế nào là tình người
và để vui cười với cuộc đời, với và cùng
người khác.
Chu Thập, Tháng 11, 2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét