Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2014

Nụ cười và Nghĩa trang



                                                                          

Nhiều lúc, tôi không biết mình có phải là người “bình thường” không, bởi vì tôi thích vào nghĩa trang.
Lúc nhỏ, tôi thường theo lũ bạn chăn trâu vào nghĩa trang để trốn học. Nghĩa trang ở làng quê thường nằm giữa cánh đồng, có những cây lớn rợp bóng mát, có cỏ hoang mọc um tùm.Vào nghĩa trang trốn học “an toàn” đã đành, mà “bắt dế” thì lại lý tưởng hơn bất cứ nơi nào. Lũ trẻ chúng tôi tin rằng những con dế sống trong nghĩa trang đều là những con “dế chiến”.

Lớn hơn một chút, đêm đến tôi cũng thường theo chúng bạn kéo nhau vào nghĩa trang để “cầu cơ”. Khi không tìm được một mảnh ván hòm (quan tài), chúng tôi cũng cố gắng lấy một miếng gỗ từ một chiếc guốc cùn, gọt đẽo thành một trái tim để làm trung gian tiếp xúc với cõi âm. Không khí nghĩa trang ban đêm lành lạnh mùi tử khí lại càng hấp dẫn đối với bọn trẻ chúng tôi. Cái cảm giác vừa “ sợ” vừa bị “hấp dẫn” bởi cái “linh thánh” lúc nào cũng chạy suốt cơ thể và tâm hồn thơ dại của tôi. Cứ thế, tôi bị nghĩa trang “mê hoặc” lúc nào không hay biết.

Ở tuổi biết buồn và bắt đầu có những suy nghĩ vụn vặt về cuộc sống, ngoài những dịp đưa tiễn bạn bè người thân đến nơi an nghỉ cuối cùng hay tảo mộ người thân vào những dịp đặc biệt như Tết hay ngày tưởng nhớ người quá cố, tôi thường  tìm đến  nghĩa trang để sống lại những ngày thơ ấu hoặc tìm một chút thanh thản cho tâm hồn.

Đến bất cứ nơi nào, ánh mắt của tôi cũng đều tìm kiếm và dừng lại thật lâu trên nghĩa trang.Tôi thích nhứt nghĩa trang ở một thành phố nhỏ gần Copenhagen, Đan mạch. Tôi được một người bạn đưa đến đó để thăm viếng thân mẫu của anh. Trái với những nghĩa trang đầy những ngôi mộ đủ kích cỡ, kiến trúc và mầu sắc mà tôi thường thấy ở Pháp hay Ý, nơi yên nghỉ của thân mẫu bạn tôi chỉ là một vườn hoa sặc sỡ. Không có lăng tẩm, không có những ngôi mộ bề thế khoa trương, mà chỉ có những thảm hoa bằng phẳng. Bốn bề nghĩa trang được bao bọc bởi những cây liễu “rũ” mà một vị giáo sư Pháp văn của tôi ngày xưa mô tả như bóng dáng của những người phụ nữ xõa tóc đang khóc. Tiếng nhạc cổ điển nho nhỏ như muốn dìu bước khách lãng du đi vào một thế giới khác.

Nghĩa trang Rockwood ở Lidcomb, Sydney cũng là một nơi quyến rũ tôi. Nghĩa trang được xem là lớn thứ nhì trên thế giới này chẳng khác nào một thành phố nhỏ. Những lần đầu tiên vào đây, tôi thường hay lạc lối, đi mãi mà không tìm được lối ra.

Nhưng lạc lối mà không lạc lõng. Giữa người sống với nhau có rất nhiều khoảng cách trên mọi phương diện: chủng tộc, màu da, văn hóa, ngôn ngữ, ý thức hệ, lập trường chính trị, tôn giáo...Nhưng xem chừng giữa người sống và người chết, những khoảng cách ấy đều được san bằng. Đây là cảm nghiệm tôi thường có khi nghĩ về cha tôi. Lúc cha tôi còn sống, vì khoảng cách không gian và những cản ngại về chính trị, tôi không thể về thăm. Nhưng kể từ sau khi cha tôi qua đời, tôi thấy những khoảng cách ấy không còn nữa: tôi cảm thấy cha tôi lúc nào cũng có mặt bên cạnh tôi; lúc nào tôi cũng có thể gặp gỡ và truyện vãn với người.

Với bất cứ một người quá cố trong bất cứ một nghĩa trang nào, tôi cũng đều có cảm nhận ấy. Đi giữa một nghĩa trang nào, tôi luôn được nghe họ nói với tôi rất nhiều điều. Họ lập lại với tôi điều mà lẽ khôn ngoan của bất cứ dân tộc nào, nền minh triết ở bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng đều mách bảo tôi: giàu sang hay nghèo hèn, quyền thế hay thấp hèn, thông minh hay ngu dốt, xinh đẹp hay xấu xí… khi nhắm mắt xuôi tay mỗi người cũng chỉ còn lại ba tấc đất. Một số bậc vua chúa được người ta chôn cất trong lăng tẩm, một số người quyền thế được người ta ướp xác và đặt lên bệ thờ. Nhưng tất cả những người quá cố trong bất cứ một nghĩa trang nào cũng đều mượn lời Kinh Thánh của Do thái giáo và Kitô giáo để nói với tôi rằng “tuy họ lấy tên mình mà đặt cho miền này xứ nọ, nhưng ba tấc đất mới thật là nhà, nơi họ ở muôn đời muôn kiếp”.

Những người quá cố trong bất cứ nghĩa trang nào cũng nói với tôi rằng trên dương thế này, người ta có thể hận thù nhau đến độ không muốn đội trời chung với nhau, nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, ai cũng đều buông khí giới và nghỉ yên bên nhau: chẳng còn phải tranh giành cãi cọ, chém giết nhau nữa!

Nằm san sát bên nhau, dường như từ bên kia nấm mồ,  những người đã khuất núi chỉ muốn nhắn nhủ tôi rằng, xét cho cùng, con đường nào cũng dẫn đến nghĩa địa, cuộc sống nào cũng hướng  đến tận cùng là nơi an nghỉ, ý nghĩa của cuộc sống rốt cục cũng chỉ qui về hai chữ  “Yêu thương”.

Đây hẳn phải là điều mà con người thường nhận thức được khi đã đi đến cuối cuộc hành trình dương thế. Tôi nhớ lại những tiếng nói cuối cùng của các nạn nhân trong cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa kỳ. Trong những giây phút cuối đời, khi gọi về cho người thân, những người mắc kẹt trong Tháp Đôi ở New York hay đang phải hấp hối từng phút từng giây trên chiếc máy bay bị những kẻ khủng bố khống chế…đều chỉ lập lại một câu duy nhứt “I love you”: con yêu thương ba má, anh yêu em, em yêu anh, ba thương con…Những người này chợt nhận ra rằng trong cuộc đời này, chỉ có một điều thiết yếu và quan trọng là yêu thương, chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa và làm cho cuộc sống này đáng sống.
Trong nghĩa trang, con người không chết. Họ chỉ là những người đã khuất núi. Họ đã đi qua bên kia ngọn núi. Giờ đây, quay nhìn lại, họ thấy rõ lộ trình của cuộc sống. Họ nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Họ muốn nhắn gởi với chúng ta rằng cuộc sống chỉ thực sự đáng sống khi con người biết sống yêu  thương.

Tôi thường nghe được thông điệp ấy mỗi khi vào nghĩa trang, mỗi ngày đầu năm khi tưởng nhớ người quá cố và đặc biệt mỗi khi tháng 11 về. Văn minh Kitô giáo dành tháng này để tưởng nhớ người quá cố.
Có nhiều cách tưởng nhớ, như tảo mộ, cúng giỗ…,nhưng tưởng nhớ đến sự chết như một lễ hội cảm tạ và nêu cao hồng ân của “sự sống” vẫn là cách thế mà tôi cho là “đẹp lòng” người đã ra đi trước chúng ta nhứt. Tôi thích cái lối cử hành này của người dân Phi luật tân. Mỗi năm, cứ đến ngày 1 tháng 11, mọi người đều kéo nhau ra nghĩa trang. Họ làm đẹp cho ngôi mộ của người thân, rồi cắm lều ngay trên ngôi mộ và “vui chơi” nguyên một ngày và một đêm với người thân. Tiếng đàn, tiếng hát, ăn uống truyện trò, tiếng reo vui và ánh đèn tỏa sáng cả một khung trời khiến cho người ta không còn nói đến “nghĩa trang buồn” nữa. Ngày tưởng nhớ đến người quá cố không còn là một ngày buồn thảm để chỉ nghĩ đến lưỡi hái của tử thần, mà là một lễ hội cử hành để tôn vinh sự sống, để chia sẻ niềm vui và đoàn tụ với người thân.
Sống yêu thương và để cho người khác cùng được sống: đó là thông điệp mà tôi nghe rõ nhứt từ bên kia những nấm mồ trong các nghĩa trang. Sống như thế nào để không bị nguyền rủa vì đã xúc phạm đến sự sống và quyền được sống của người khác: đó hẳn phải là cách thế tưởng nhớ mà người quá cố vui thích nhứt.
Tôi có ý nghĩ ấy khi đọc lá thư mới đây của một nhà lãnh đạo tôn giáo tại Việt nam là đức giám mục Vĩnh Long gởi cho các tín hữu trong giáo phận của ngài. Lá thư được gởi đến cho toàn thể giáo phận vào dịp khởi đầu tháng 11 là tháng được truyền thống Kitô giáo dành riêng để tưởng nhớ người quá cố.

Mở đầu lá thư, vị giám mục này viết: “Mỗi năm, bước vào tháng chín, tôi nhớ tới biến cố ngày 7.9.1977,được kể như ngày Đại Nạn của địa phận Vĩnh Long, khi Nhà thờ chánh tòa, đại chủng viện, dòng Thánh Phaolô thành Chartres, Thánh gia học viện bị phong tỏa và sau đó, mọi người phải ra đi, kẻ vào tù, người thì được dời đi nơi khác. Ôi thôi! Đất bằng dậy sóng, những nơi tu hành bấy giờ bị coi như chỗ đào tạo phản cách mạng. Tội danh ấy tới nay vẫn chưa được chứng minh. Có những người đã chết, mang theo xuống mồ cái tội danh giả mạo ấy…”

Rồi nhắc đến chuyện chính quyền Vĩnh Long  cướp đoạt phần đất trước kia là của các nữ tu dòng Phaolo để xây quảng trường, biến thành điều được gọi là “lá phổi xanh cho nhân dân sống trong nội ô thành phố Vĩnh Long”, đức giám mục Vĩnh Long viết: “Tôi chợt nhớ tới Công Viên Cây Xanh ở đường Nguyễn thị Minh Khai, trước kia là Đất Thánh. Tôi nghĩ đến rất nhiều thân nhân của anh chị em Công giáo đang còn bị chôn vùi trong lòng đất, bên dưới công viên này và hơn 30 năm qua, hằng ngày có nhiều người lui tới chắc chắn không phải để thắp hương cầu nguyện, báo hiếu, nhưng chỉ để vui chơi và vô tình dẫm lên nơi an nghỉ của tiền nhân chúng ta. Như thế có đau lòng không!”

Quả thật, người chết không thể “ngậm cười nơi chín suối”, mà người sống lại càng không thể “vui cười” khi nơi thánh thiêng nhứt là nghĩa trang không còn được tôn trọng.

Tôi nhớ lại một nhận xét thâm thúy của một người bạn sau một chuyến du lịch tại Trung Quốc. Anh không bị choáng ngợp vì sức phát triển kinh tế nhanh chóng của quốc gia cộng sản khổng lồ này. Anh nói: “Có hai điều hiếm thấy tại Trung Quốc: một là nụ cười, hai là nghĩa trang”.

Cứ tưởng “buồn” và “đìu hiu” là hai tĩnh từ chỉ đi theo sau hai chữ “nghĩa trang”, cứ tưởng nụ cười và nghĩa trang chẳng ăn nhập gì với nhau. Thật ra, khi nghĩa trang bị đào bới, khi người chết bị xúc phạm, khi tình cảm của người sống không được tôn trọng, khi mạng sống và các quyền cơ bản nhứt của  con người bị xem nhẹ hơn rơm rác, khi tình nghĩa giữa người với người phải nhường chỗ cho tham lam, ích kỷ, gian dối…thì đương nhiên nụ cười làm sao còn đất sống.

Có khi phải vào nghĩa trang để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, để học biết thế nào là tình người và để vui cười với cuộc đời, với và cùng  người khác.


Chu Thập, Tháng 11, 2009





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét