Tôi nhớ hồi thập
niên 1980 có xem bộ phim với tựa đề “The
Gods Must Be Crazy” (thần thánh hẳn phải điên). Bộ phim ba tập này kể lại các
cuộc phiêu lưu của một người Phi Châu thuộc một bộ lạc mà đời sống còn rất bán
khai. Nhân vật chính của bộ phim tên là Xi. Xi và bộ lạc của anh sống rất hạnh
phúc trong vùng sa mạc Kalahari. Họ sống hạnh phúc vì thần thánh lúc nào cũng
cung cấp cho họ mọi sự; không một người nào trong bộ lạc cảm thấy thiếu thốn bất
cứ thứ gì. Thế rồi, một ngày nọ, không rõ từ một chiếc máy bay nào đó, một chai
Coca Cola lại rơi xuống còn nguyên vẹn trước mặt họ. Lúc đầu, người dân bộ lạc
tưởng cái vật lạ lùng này là một quà tặng của thần thánh. Họ xử dụng nó vào đủ
thứ việc. Cái chai cứ chuyền tay từ người này sang người khác. Sự kiện làm nẩy
sinh một hiện tượng chưa từng có trước đó bao giờ: người ta bắt đầu đặt vấn đề
về “quyền sở hữu”. Thế là người dân bộ lạc lại cảm nghiệm những điều mà họ chưa
từng có bao giờ như ganh tỵ, tham lam, giận dữ, hận thù và dĩ nhiên bạo động.
Vì cái chai Coca
Cola này là nguyên nhân gây ra bất ổn và bất hạnh cho người dân bộ lạc cho nên
Xi cho nó là một thứ “đồ hung của dữ” và quyết định mang nó đến tận cùng trái đất
cho khuất mắt. Và đó là khởi đầu của các cuộc mạo hiểm của anh tại nhiều nơi
trên thế giới.
Lần đầu tiên được
ra khỏi thế giới nhỏ bé của mình, dĩ nhiên Xi thấy cái gì cũng lạ: anh tưởng những
người da trắng cao lớn là thần thánh. Sang cuốn phim thứ hai thì mắt anh cũng mở
ra và anh kể lại cho con cái rằng những người da trắng to lớn, “nặng nề” biết một
số ma thuật có thể làm cho mọi sự di chuyển. Tuy nhiên, họ không “thông minh” lắm
vì họ không thể sống nếu không có ma thuật.
Không biết người
làm phim có ý nhắn gởi sứ điệp nào cho chính người dân Phi Châu hiện nay không,
nhưng theo dõi World Cup, tôi thấy ma thuật vẫn còn rất thịnh hành tại lục địa
này.
Đạo nào cũng có
thần thánh. Đạo “World Cup”, cách riêng, tại Phi Châu có nhiều thần thánh hơn bất
cứ nơi nào trên thế giới. Có thần thánh cho nên dĩ nhiên phải có phù thủy để có
thể tiếp xúc và “lèo lái” được thần thánh. Chính vì thế mà hơn bất cứ lúc nào,
mùa World Cup là thời gian các phù thủy ăn nên làm ra nhứt. Ngay từ lúc mùa thi
đấu chưa diễn ra thì các “vị tiên tri” này đã biết đội bóng nào sẽ vô địch rồi! Không những tiên đoán kết quả, các thày phù
thủy còn tung ra hết các thành công lực để trù yếm. Người ta bảo rằng đội tuyển
Anh không thể “đè bẹp” được đội Algerie, vì một số thày phủ thủy Phi Châu đã ủng
hộ đội tuyển này. Người Phi Châu còn nói rằng các thày phủ thủy Phi Châu đã
dùng pháp thuật biến những con chim bồ câu nhỏ thành vật chắn chân các tuyển thủ
Anh và giữ cho khung thành của Algerie không bị thủng lưới. Một bà phù thủy tên
là Olga Mokewena còn khẳng định rằng bà đã nhìn thấy một con bồ câu xuất hiện
vào buổi tối, thời điểm mà lẽ ra nó phải ngủ như những con bồ câu khác. Chính
con chim không chịu đi ngủ này đã bảo vệ khung thành Algerie.
Người ta cũng giải
thích rằng chính nhờ lá bùa của các thày phù thủy mà đội Nam Phi đã thắng đội
Pháp ở vòng 1. Có lẽ ma thuật đã “tác động” thực sự trên các cầu thủ Pháp, cho
nên một cầu thủ của đội tuyển Pháp đã bị trọng tài rút thể đỏ đuổi ra sân một
cách rất vô lý và cuối cùng, những con gà trống “Gaulois” đành rút đầu xếp cánh
về nước.
Nhưng không biết
có phải vì các thày phù thủy Phi Châu “bắt ấn” không đủ “chặt” chăng mà cuối
cùng chỉ còn lại một đội Phi Châu là Ghana lọt được vào vòng tứ kết. Tuy nhiên,
sau trận thư hùng với Uruguay sáng thứ Bảy 3 tháng 7 vừa qua, mặc dù “trên cơ”,
cuối cùng đội này cũng đành phải cuốn gói ra về.
Có lẽ “thần
thánh” của người Phi Châu không mạnh bằng “Đức Chúa Trời” của dân Châu Mỹ
Latinh chăng mà chẳng còn đội tuyển nào của Phi Châu được lọt vào vòng bán kết.
Tuy không có thày phù thủy nào tháp tùng và bắt ấn ủng hộ, nhưng hầu hết các
tuyển thủ Nam Mỹ đều biết tự mình “cầu nguyện”. Hình ảnh của nhiều tuyển thủ của
lục địa này làm dấu thánh giá liên tục trên sân cỏ là chuyện quá quen thuộc.
Riêng lòng “mộ đạo”
của huấn luyện viên Diego Maradona của đội tuyển Argentina là điều không thể chối
cãi. Ông đã từng là thần tượng bóng đá của rất nhiều người. Ngay từ năm 1980,
ông đã ký giao kèo 5 triệu Mỹ kim để sang Tây Ban Nha đá cho đội Barcelona.
Nhưng tên tuổi và sự thành công của ông được nói đến nhiều nhứt trong các cuộc
tranh tài World Cup tại Mehico hồi năm 1986. Cả thế giới vẫn nhớ mãi bàn thắng
đầu tiên của ông trong trận bán kết giữa Argentina và Anh: Maradona đã nhảy lên
đội đầu, nhưng lại dùng tay để đánh quả banh khéo léo đến độ qua mắt được trọng
tài. Sau này, Maradona giải thích rằng anh ghi được bàn thắng ấy một phần nhỏ “nhờ cái đầu của anh và phần còn lại là do
bàn tay của Chúa”!
Không biết có phải
nhờ “bàn tay của Chúa” ấy không mà dưới
sự dẫn dắt của ông, đội Argentina được xem là một trong những ứng viên sáng giá
nhứt tại World Cup này. Không có thày phù thủy bên cạnh, nhưng trên tay ông lúc
nào cũng có một tràng chuỗi. Phải chăng đây là “bùa mộ mạng” đã mang lại thành
công cho ông và đội tuyển Argentina trong suốt những ngày thi đấu vừa qua tại
World Cup? Tuy nhiên, dường như cái “bùa hộ mạng” ấy cũng không đủ mạnh cho nên
trong trận tứ kết sáng Chúa nhựt 4 tháng 7, Argentina đã bị Đức đè bẹp không
chút xót thương với tỷ số 4-0.
Cũng tội cho đội
tuyển Brasil. Có lẽ chẳng có ai “sùng đạo” cho bằng các tuyển thủ của nước này.
Nhưng xem chừng lời “bầu cử” của ông thánh da đen Martino Porres, vị thánh rất
được sùng kính tại Brasil, không công hiệu mấy cho nên đội này đành chấp nhận “cúi
đầu” trước đội Hòa Lan trong trận tứ kết.
Tôi không biết
trong mùa World Cup này, trên thiên triều có diễn ra trận thư hùng nào giữa các
thần linh của lụa địa Phi Châu và các thánh, Đức Mẹ và Đức Chúa Trời của Châu Mỹ
Latinh không. Rõ ràng là ai cũng tin tưởng chạy đến với thần thánh của mình.
Nhưng cũng rất rõ ràng là dù tất cả các đội tuyển có thành khẩn cách mấy, cuối cùng chỉ còn lại
một đội vô địch mà thôi. Tưởng tượng Đức Chúa Trời và các thần thánh phải bị “lôi
kéo” vào các cuộc thi đấu, tôi nghĩ các vị hẳn cũng phải “ điên cái đầu”.
Một Đức Chúa Trời
mà bị lôi kéo vào cái vòng “hỉ nộ ái ố” của con người thì cũng phải “hành động”
như cách suy nghĩ của con người thôi. Trong khi Đức Chúa Trời của người Do Thái
đã chọn dân Do Thái làm “Dân Riêng” của Ngài cho nên cái đêm trước khi họ được
ông Môisen lãnh đạo trốn ra khỏi Ai Cập, Ngài đã sai một vị thiên sứ đi “qua”
nhà của người Ai cập và tàn sát tất cả những đứa con trai đầu lòng của họ. Vì
đã ban “Đất Hứa” cho họ cho nên trên đường tiến về vùng đất ấy, Ngài cho họ được
quyền tàn sát bất cứ dân tộc nào.
Mặt khác, người
Hồi giáo lại tin “Ông Chúa” của họ chọn ông Mahomet làm vị tiên tri cuối cùng của
Ngài và chỉ có Hồi giáo là đạo duy nhứt chân thật, cho nên tất cả những ai ở
ngoài đạo này đều bị xem là “những kẻ bất trung” hoặc cưỡng bách phải “cải đạo”
hoặc phải bị tiêu diệt. “Ông Chúa” này lại còn hứa thưởng cho đàn ông một thiên
đàng trong đó mỗi người được cưới đến 72 trinh nữ, cho nên không thiếu những
người sẵn sàng ôm bom tự sát để tiêu diệt quân thù hầu được vào thiên đàng ấy.
Trong dòng lịch
sử của Kitô giáo cũng thế, Đức Chúa Trời cứ phải đứng về phía các tín hữu Kitô
cho nên chỉ có Kitô giáo mới có Chân lý. Và để áp đặt cái chân lý ấy, người ta
đã mở ra các cuộc thập tự viễn chinh để tiêu diệt quân “ngoại đạo” hoặc lập ra
Tòa Điều Tra để thiêu sống những kẻ “lạc giáo”. Hoặc nếu không tàn ác như thế
thì khi đi truyền đạo, người ta cũng tự nhận mình đã lãnh nhận sứ mệnh từ Đức
Chúa Trời để xóa bỏ mọi truyền thống tốt đẹp của các dân ngoại đạo.
Tội nghiệp thay cho
Đức Chúa Trời, cứ bị lôi kéo theo suy nghĩ và niềm tin của con người, cho nên mới
buộc phải tham gia vào những điều “ác đức” như thế!
Có khi người ta
không ngại cầu xin những điều đi ngược lại với đạo đức mà chính tôn giáo họ
đang theo dạy dỗ. Tôi có nghe kể: trước năm 1954, ở một làng Công giáo nào đó
ngoài Bắc, một số dân thuyền chài cũng là những tên cướp chính hiệu. Họ không
chỉ đi đánh cá, mà còn sống bằng nghề “cướp bể” và xem đó như một nghề chính
đáng. Trước khi ra khơi, họ thường đến khấn: “Lạy Đức Bà, xin cho con đánh được
chuyến này, thì con xin “râng” (dâng) Đức Bà thùng “rầu” (dầu để đốt đèn trong
nhà thờ). Cũng tội nghiệp cho Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, nếu chẳng may tên cướp
thành công thì Đức Mẹ lại mang tiếng đã nhậm lời cầu xin! Nhiều phần trăm câu
chuyện này không mang tính trung thực nhưng nó nói lên cái tính “đòi hỏi” những
chuyện hết sức “oái oăm” của con người.
Trong các thánh
lễ của người công giáo, thỉnh thoảng tôi có nghe linh mục đọc các ý lễ “xin được như ý”, tức theo ước nguyện riêng
của người xin. Tôi vẫn cứ thắc mắc hoài về điều xin được “như ý” ấy. Không biết Đức Chúa Trời có đáp ứng mọi lời cầu xin “như ý” không. Có khi “như ý” tôi mà lại “trái ý” người khác. Ngày mai, tôi muốn đi biển chơi hay tham gia một
cuộc hành hương, dĩ nhiên “như ý” của
tôi là phải có nắng ráo. Thế nhưng gần bên chỗ tôi đi chơi hay hành hương thì lại
có mấy ông nông gia cũng ngày đêm xin được “như
ý” là trời mưa xuống để cứu vãn mấy thuở đất khô cằn và mấy con trừu ốm đói
từ bao năm qua. Chắc Đức Chúa Trời phải “điên đầu” vì vô số những “như ý” như thế!
Thần thánh không
chỉ điên đầu với những người tín đồ của các tôn giáo mà ngay cả với những người
tự xưng là vô thần. Chẳng hạn như ở Việt nam hiện nay, những người Cộng sản
luôn tự xưng là vô thần lại là những người “đút lót” cho thần thánh nhiều nhứt.
Báo Người Việt Online, 8/10/2004, viết: “Gần
đây, ở miền Bắc Việt Nam, cả ở thành thị lẫn vùng nông thôn xuất hiện rất nhiều
những ngôi nhà có kiến trúc kiểu đền phủ, điện thờ. Ở những nơi này người ta cầu
cúng, hương khói nghi ngút, nến cháy đỏ ngày, đôi khi có cả hát chầu văn, hầu đồng
bóng...” Theo bài báo, nếu số “đền phủ
tại gia” lên đến con số nghìn vào năm 2004 thì chúng ta cũng có thể ước lượng
“đội ngũ” những cô đồng cậu bóng, thày cúng hay nhà “ngoại cảm” nhiều cỡ nào.
Bài báo kết luận: “Không
biết các “cô” đã “xin” được lộc cho những ai nhưng chỉ thấy các “cô” càng ngày
càng phất lên. Như cô Sảnh, từ một gia đình làm nông nghiệp nghèo kiết xác bỗng
chốc xây được nhà ba tầng khang trang đầy đủ tiện nghi, sắm được cả một chiếc
ôtô du lịch, sống ở vùng thôn quê đã có điện thoại bàn nhưng “cô” còn xài cả
điện thoại di động xịn...”
Là một tín hữu
Kitô cho nên tôi chỉ biết có mỗi một Đức Chúa Trời mà Chúa Giêsu đã nói cho tôi
biết. Ngài nói rằng Đức Chúa Trời là Đấng cho mặt trời mọc lên trên người lương
thiện cũng như kẻ gian ác chẳng chừa ai. Ngài nói rằng tất cả mọi người là con
cái của Đức Chúa Trời chứ không chỉ có một dân tộc được tuyển chọn nào cả. Ngài
cũng nói rằng Đức Chúa Trời quan phòng lo lắng cho mọi nhu cầu của từng người đến
độ ngay cả có bao nhiêu sợi tóc trên đầu cũng được đếm cả. Suốt một đời, Chúa
Giêsu sống theo Ý của Đức Chúa Trời, chứ không theo “như ý” mình. Và nhứt là, khi dạy các môn đệ cầu nguyện, Ngài bảo
phải xin: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời”.
Thời nội chiến
Nam Bắc Mỹ, khi thấy ông cầu nguyện, người ta hỏi tổng thống đầu tiên của Hoa kỳ
George Washington cầu nguyện cho ai, ông trả lời rằng ông cầu nguyện để được “đứng về phía Thiên Chúa”.
Tôi cũng chỉ
mong sao được luôn luôn “đứng về phía
Thiên Chúa” vì biết rằng đời sống là một cuộc chiến trong đó, dù thắng hay
thua, dù được hay mất, dù hạnh phúc hay khốn khổ, dù thành công hay thất bại và
ngay cả khi tôi có “lầm đường lạc lối”…lúc nào cũng có một Đức Chúa Trời đã,
đang và sẽ không ngừng ban mọi điều thiện hảo cho tôi, dìu dắt và hướng dẫn
tôi, dĩ nhiên, một cách vô cùng mầu nhiệm theo Ý Ngài.
Chu Thập, World Cup 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét