Thứ Tư, 21 tháng 6, 2017

Quít ngọt Hoài Nam…


Chu Thập
19/11/13

Sau cơn bão “Hải Yến”, Phi Luật Tân đã trở thành trọng tâm chú ý của toàn thế giới. Đã từng sống và làm việc tại nước này trong nhiều năm, tôi không thể không hướng nhìn về đất nước này với nhiều cảm mến, ngưỡng mộ, tri ân và xót thương.
Năm 1985, lần đầu tiên đặt chân đến Phi Luật Tân, tôi thực sự ngỡ ngàng về mức độ phát triển của quốc gia này nếu so với Việt Nam. Trước năm 1975,thỉnh thoảng tiếp xúc với một số người Phi làm việc tại Việt Nam, với cái nhìn của một con ếch còn ngồi trong đáy giếng, tôi cứ nghĩ rằng hễ dân tộc nào “ăn bóc” thì dân tộc đó còn “mọi rợ” bán khai. Nhưng khi bước ra khỏi phi trường Manila, nhìn cảnh xe cộ nối đuôi nhau trên các đường phố rộng thênh thang và sáng trưng, tôi thực sự choáng ngộp và tự hỏi: “họ văn minh vậy sao?”
So với Việt Nam, đất nước Phi Luật Tân mà tôi biết không phải là một quốc gia giàu tài nguyên . Với trên 7 ngàn hải đảo, Phi Luật Tân là một quốc gia còn gặp nhiều trắc trở trong vấn đề giao thông. Có những vùng chỉ có thể đặt chân đến bằng máy bay. Có những nơi chỉ có thể đi đến bằng tàu bè. Nhưng một khi đã đến đó, dù là nơi thăm sơn cùng cốc đến đâu, người ta cũng có thể thấy những con đường nhựa hoặc xi măng chắc chắn. Và dĩ nhiên, cửa hàng và siêu thị thì ở đâu cũng có. Ở Manila, người dân Phi vẫn tự hào rằng họ có những trung tâm thương mại lớn nhứt Á Châu. Còn nói về đại học thì tôi nghĩ ở Á Châu có lẽ chẳng có nước nào có nhiều cơ sở giáo dục từ cao đẳng trở lên cho bằng Phi Luật Tân. Với Anh Ngữ được xử dụng như phương tiện giảng dạy chính, dù không có Đại học nào của Phi được xếp vào hàng 100 đại học đứng đầu thế giới, Phi Luật Tân vẫn là nước sản xuất chuyên viên có tay nghề cao  có thể chiếm lĩnh thị trường lao động nước ngoài. Đây có lẽ là lực lượng kinh tế mạnh nhứt của Phi Luật Tân. Có lẽ nhờ sự đóng góp của trên 9 triệu  người Phi đi làm  hoặc sinh sống ở  nước ngoài mà kinh tế Phi mới có thể “cầm hơi” trước sự quản lý kinh tế yếu kém trong nước và nhứt là những thiệt hại do thiên tai gây ra hàng năm.
Nói đến Phi Luật Tân là nói đến bão lụt, động đất và núi lửa. Mỗi năm, quốc gia hải đảo này trải qua ít nhứt trên 20 trận bão. Trong 15 năm sống ở đây, tôi cũng học được sự bình thản của người Phi để xem bão lụt như chuyện thường ngày ở huyện. Năm 1990, tôi cũng đã được hân hạnh nếm mùi động đất. Đây là một trong những trận động đất được xem là mạnh nhứt trong lịch sử Phi Luật Tân và đã xảy ra ngay trên đảo Luzon, nơi tôi đang ở.  Cho tới giờ phút này, tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh của một em học sinh tiểu học nằm kẹt trong ngôi trường đỗ nát trong mấy ngày liền. Chốc chốc truyền hình lại chiếu lên cái đầu của em đang cố gắng ngoi ra mà người ta vẫn không biết làm cách nào để cứu em. Có lẽ đây là cơn hấp hối lâu dài và khủng khiếp nhứt không chỉ của một em bé gái mà còn là của cả dân tộc năm nào cũng phải hứng chịu thiên tai.  Nhưng có lẽ kinh nghiệm khủng khiếp và hãi hùng nhứt mà tôi đã trải qua là vụ núi lửa Pinatubo, nằm cách Manila về hướng Bắc khoảng 80 cây số, phun ngày 12 tháng 6 năm 1991. Tôi nhớ rõ ngày tháng là bởi vì hôm đó tôi đang trên đường đi vào trại tỵ nạn Bataan, cũng nằm ở phía Bắc Manila. Cũng như nhiều người dân Phi, khi núi lửa phun lên và bụi khói che kín cả mặt trời, tôi có cảm giác như đã đến ngày tận thế.
Đã nghèo lại trải qua thiên tai triền miên, vậy mà người dân hải đảo này vẫn sống theo một thứ triết lý mà họ gọi là “Bahala na”.Đứng trước bất cứ thất bại, tai nạn hay rủi ro nào, người Phi thường thốt lên “Bahala na”, nghĩa là “để Trời lo” hay “tới đâu hay tới đó”. Tôi không biết có phải vì cái triết lý sống này mà người Phi thích “lè phè” và lạc quan không. Ở đâu và lúc nào xem ra họ cũng đều có thể vui đùa, ca hát được. Nếu như bên Mỹ người ta thường nói : “không ăn đậu không phải là Mễ, không đi trễ không phải là Việt Nam”, thì có bảo rằng “không vui đùa bỡn cợt không phải là Phi” cũng không phải là quá đáng lắm.
Nhưng tôi không chỉ học được tinh thần lạc quan, óc khôi hài của người Phi. Quan trọng hơn cả với tôi có lẽ là bài học về sự lương thiện, hiền hòa, hiếu khách, nhẫn nhục mà họ đã dạy cho tôi. Tôi còn nhớ năm 2004, tạp chí Reader’s Digest đã làm một cuộc trắc nghiệm về tính lương thiện của người dân tại 9 nước Á Châu. Kết quả cuộc trắc nghiệm cho thấy người dân Phi được điểm cao nhứt về sự lương thiện. Có đến 82 phần trăm người Phi cho biết họ sẽ báo cho nhân viên bảo vệ nếu thấy có người ăn cắp trong các cửa hàng buôn bán. Cũng với tỷ lệ đó, người Phi nói rằng họ luôn trả lại cho cửa hàng nếu có sự lầm lẫn của nhân viên tính tiền.
Tôi tận mắt chứng kiến tính lương thiện ấy của người Phi mỗi khi leo lên xe “Jeepney”, một loại xe di chuyển công cộng rất thịnh hành tại Phi Luật Tân. Trên xe, ngoài người tài xế ra không có bất cứ một người “phụ ếch’(aide) nào cả. Hành khách muốn gian lận, nghĩa là không trả tiền, có lẽ tài xế cũng chẳng làm gì được. Nhưng mọi thanh toán trên xe đều dựa vào tính lương thiện của hành khách: bất cứ ai lên xe cũng đều tự động nhờ người ngồi trước chuyển tiền lên cho tài xế. Người tài xế chẳng cần phải nhìn lại phía sau để biết có ai đó gian lận không. Ai không có tiền lẽ, ông vẫn nhớ và thối lại...
Còn chuyện người Phi hiền hòa, hiếu khách...tôi nghĩ có lẽ nên nhường lời lại cho bất cứ ai đã từng là người tỵ nạn tại Phi Luật Tân. Trên đường vượt biên, tàu thuyền của người Việt tỵ nạn có bị xua đuổi, trấn lột, cướp bóc, hãm hiếp và ngay cả sát hại ở đâu đó, như Thái Lan chẳng hạn, nhưng chưa từng nghe ai nói những chuyện như thế đã xảy ra trong vùng biển Phi Luật Tân. Đầu thập niên 1990, khi các nước Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan, Hong Kong tuyên bố đóng cửa các trại tỵ nạn và cưỡng bách người tỵ nạn hồi hương, Phi Luật Tân vẫn mở rộng vòng tay để tiếp tục ôm ấp vổ về họ.Những ai đã từng tỵ nạn tại đây đều thấy rằng đất nước này thực sự là đất của tình người và ngưỡng cửa của tự do.
Tôi thật sự ngưỡng mộ rất nhiều đức tính của dân tộc này. Nhưng trông người lại nghĩ đến ta. Về phát triển kinh tế, phải nhìn nhận Việt Nam chỉ trong một thời gian ngắn đã làm được những bước khá dài. Nhưng không hiểu tại sao cứ nói đến con người “xã hội chủ nghĩa” Việt Nam, không chỉ bên ngoài mà ngay cả trong nước, ai cũng đều nhắc đến những biểu hiện tiêu cực đáng xấu hổ. Tác giả Hạnh Nguyên từ trong nước đã ghi lại “cảnh tượng chen lấn, xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để tranh giành, vơ vét thức ăn, hàng hóa hay thậm chí là hôi của”. Như chuyện xảy ra tại Hà Nội ngàn năm văn vật hôm 24 tháng 10 vừa qua: một cửa hàng Sushi(Nhựt Bản) trong ngày khai trương đã thông báo mở cửa tự do, mời khách vào ăn miễn phí. Thế là người dân thủ đô cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tràn vào giành giựt thiếu điều cắn xé nhau như đám hỗ đói. Trước đó, cũng theo tác giả Hạnh Nguyên, năm 2012, một nhà hàng tại Sài Gòn loan báo giảm giá “Buffet size khủng giá 100.000 đồng”. Thế là người dân cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lại hỗn chiến để tranh cho bằng được thức ăn giảm giá. Trong nhà hàng mà diễn ra cảnh tượng ấy thì huống hồ trong các siêu thị mỗi khi có giảm giá(x. Việt Luận thứ sáu 15/11/2013).
Cũng trên Việt Luận, tác giả Bửu Long còn nói đến cảnh chen lấn, giẫm đạp lên nhau diễn ra ngay trong những nơi thiêng liêng như Đền Bà Chúa Kho, Bắc Ninh  ngày 21 tháng 2 năm 2012.
Mới đây, nghe nói sau trận bão Hải Yến, đã xảy ra nạn cướp bóc tại một vài cửa hàng ở Tacloban, thành phố bị thiệt hại nặng nề nhứt. Bần cùng sinh đạo tặc. Trong cơn túng quẫn, con người dễ bị cám dỗ làm chuyện phi pháp. Chuyện ấy thì ở đâu cũng có thể xảy ra. Nhưng trong những điều kiện bình thường, trong suốt những năm tháng sống tại Phi Luật Tân, tôi chưa từng chứng kiến hay nghe nói đến những cảnh hỗn chiến, tranh giành, giẫm đạp lên nhau vì một chút thức ăn trong nhà hàng hay một vài món hàng hạ giá trong các cửa tiệm như đã xảy ra tại Việt Nam trong thời gian gần đây.
Ngẫm nghĩ và so sánh người dân Phi với người dân Việt dưới thời xã hội chủ nghĩa, tôi nghiệm ra rằng ở đâu thì con người ta  cũng có tính thiện cả, nhưng bản tính ấy có thể bị làm cho bại hoại và đồi bại khi phải sống trong những điều kiện hạ phẩm giá con người.
Người Việt nào mà không biết điển tích về ông Án Tử, một vị tướng tài ba, lại đạo đức và có tài ứng xử giỏi thời Đông Chu Liệt Quốc. Chuyện kể rằng có lần Án Tử sang thăm nước Sở. Trước khi ông đến nước Sở, vua nước này xin cận thần góp ý để tìm ra kế làm nhục ông. Theo nhục kế, người ta sẽ dẫn một người bị trói đến trước mặt Án Tử và bảo rằng đây là một người nước Tề. Khi Án Tử đến, vua nước Sở đã cho tổ chức một bữa tiệc để khoãn đãi “khách quý”. Lúc đang uống rượu, bọn lính điệu một người bị trói vào. Theo đúng kế hoạch, vua Sở hỏi lý lịch của tên tội phạm. Một người lính liền thưa: “ Tên này là một người nước Tề. Hắn phạm tội ăn trộm”. Nhà vua liền mỉm cười chế nhạo: “ Thì ra người quý quốc hay trộm cắp lắm phải không?” Án Tử bình tĩnh trả lời: “ Chúng tôi thiết nghĩ cây quít mọc ở đất Giang Nam(Hoài nam) có quả rất ngọt, nhưng đem sang trồng ở đất Giang Bắc(Hoài Bắc) thì quả lại chua. Đó là do thủy thổ khác nhau mà sinh ra thế. Người nước Tề chúng tôi không quen trộm cắp, nhưng sang nước Sở lại sinh ra ăn trộm có lẽ cũng vì thủy thổ giữa bản quốc và quý quốc khác nhau chăng?(x.Phùng Mộng Long, Đông Chu Liệt Quốc, hồi 69)
Đâu cần phải nhìn sang Phi Luật Tân cho xa, chỉ cần so sánh xã hội Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa với thời xã hội chủ nghĩa ngày nay cũng đủ để thấy sự khác biệt một trời một vực trong tâm tính và cách ứng xử của con người. Cuộc sống xã hội và tinh thần dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, trong gia đình, ngoài xã hội, trong trường học, tại công sở, nơi xóm giềng, bạn hữu...tất cả đều có nề nếp và “văn hóa” theo ý nghĩa cao quý nhứt của từ này. Học trò lễ phép với thày; vợ chồng, cha con, mẹ con thương yêu gắn bó với nhau. Thời đó làm gì có chuyện học trò hỗn láo xấc xược như ngày nay. Thời đó, dĩ nhiên cũng có tham nhũng, nhưng làm gì tới mức độ được “định chế hóa” và trở thành quy luật sống như ngày nay. Thời đó cũng như thời nào và ở đâu, cũng có những con người “vô cảm”, nhưng làm gì trở thành một “hiện tượng” phổ quát như ngày nay.  Thời đó, cũng có chửi thề như khắp mọi nơi trên thế giới này, nhưng làm gì có chuyện trở thành một thứ “văn hóa ứng xử” như ngày nay. Thời đó cũng có dối trá như khắp mọi nơi trên thế giới này, nhưng làm gì có chuyện trở thành luật sống như ngày nay.
Như hai ký giả Thiện Giao và Đinh Quang Anh Thái của báo Người Việt đã tường thuật từ thành phố Tacloban “người dân Phi vẫn mỉm cười trên hoang tàn, đổ nát”. Tôi xót thương vô số nạn nhân của trận bão Hải Yến. Và dĩ nhiên, tôi cũng ngưỡng mộ tính lương thiện, tấm lòng hiếu hòa hiếu khách và tinh thần lạc quan của người Phi. Và cũng lạc quan như bình luận gia Ngô Nhân Dụng trong bài “thư gởi ông ăn trộm” (x.Người Việt 15/11/2013), khi bè lũ hung tàn man dại trả lại đất nước cho dân tộc, tính “bản thiện” của người Việt trong nước cũng sẽ được hồi sinh và khởi sắc



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét