Thứ Tư, 7 tháng 6, 2017

Melbourne Cup & Cinderella thời đại!


Chu Thập
05/11/13
Bằng mọi giá năm nào tôi cũng phải xem cho bằng được Melbourne Cup. Năm nào bỏ lỡ, tôi cảm thấy ray rứt và mang mặc cảm chưa phải là công dân Úc! Thật ra, không thích và cũng chẳng biết đánh cá ngựa, tôi thích nhìn cảnh đô hội hơn là quan tâm đến tên tuổi và thành tích của mấy con ngựa đua. Vả lại so với một trận túc cầu thì cuộc đua trải dài trên 3200 thước và 3 phút phù du chẳng mang lại cho tôi được chút hào hứng và hồi hộp nào cả. Năm nay, đặc biệt có sự hiện diện của người mẫu được mệnh danh là con “báo đen” Naomi Campbell cho nên tôi lại càng thích nhìn người hơn xem ngựa, dĩ nhiên với nhiều suy nghĩ và xót xa hơn là hăm hở và lên cơn sốt như toàn nước Úc. Xét cho cùng, năm nào tôi cũng chỉ thấy lập lại một cảnh tượng.
Chuyện đua ngựa và đánh cá ngựa tưởng chỉ là sân chơi dành riêng cho cánh mày râu, đã biến thành một thứ Lễ hội Mùa Xuân của phụ nữ Úc. Không rõ làm sao mà năm nào người ta cũng thuyết phục được phụ nữ Úc rằng để trở thành “công chúa” hay “cô bé lọ lem Cinderella” dù chỉ trong một ngày thôi, họ cần phải mua sắm một bộ quần áo hợp thời trang và hấp dẫn nhứt, chi ra một món tiền thật lớn để mua cho bằng được một cái mũ khác thường nhứt và xỏ vào chân đôi giày quý phái nhứt mặc dù biết rằng sau một ngày lê lết trên cỏ và đặc biệt sau một ngày uống cho đến độ không còn biết trời trăng gì cả, người ta chỉ còn biết quăng giày để lê lết mà thôi.
Theo ghi nhận của ký giả Jacqueline Maley trên báo The Sydney Morning Herald, đám đông phụ nữ tô điểm cho Melbourne Cup hằng năm chỉ là đám người nghèo bị kỹ nghệ đánh cá khai thác. Người ta lừa mị họ khi bảo rằng đua ngựa là thú tiêu khiển và thể thao của vua chúa và bất cứ người phụ nữ nào xuất hiện tại Randwick hay Flemington cũng đều có thể trở thành một “công chúa” hay một “Cinderella”.
Dĩ nhiên, ngựa thường là chuyện của đàn ông (cho tới giờ phút này, tôi cũng chưa hiểu được tại sao ngày xưa mỗi lần chê trách hay lên án một cô gái “mất nết” nào đó, mẹ tôi thường sử dụng hình tượng “đồ ngựa rượt”). Đó là chưa kể những qui định rắc rối của trò chơi vốn không mấy thích hợp với đầu óc phụ nữ. Thành ra cuối cùng, nếu phụ nữ có đến trường đua trong ngày Melbourne Cup thì cũng chỉ vì thời trang mà thôi. Không biết có phải là qui định có tính khiên cưỡng không, người phụ nữ nào bước vào trường đua trong ngày Melbourne Cup cũng đều buộc phải mang váy chứ không được mặc quần. Thành ra cảnh tượng xảy ra ở “buổi chợ chiều” của ngày Melbourne Cup năm nào trông cũng thê thảm: sáng sớm, các bà các cô ra khỏi nhà lộng lẫy kiêu sa như một công chúa, cuối ngày thường là lê lết chân không trên các ngã phố, chân nam đá chân siêu và xem ra cũng chẳng còn đủ sức để vẫy gọi mọi chiếc taxi. Đó là chưa nói đến chuyện nhiều người bị đám đàn ông thanh niên say lúy túy gạ gẫm và ngay cả xách nhiễu tình dục. Sau một đêm khiêu vũ với hoàng tử, Cinderella thiệt ít ra còn đủ sức về nhà với một chiếc giày còn dính ở chân và được hoàng tử tìm đến tận nhà để trao lại chiếc giày đánh mất. Các “công chúa” của Melbourne Cup thì mất cả hai chiếc giày và mất cả niềm hy vọng được làm công chúa dù chỉ trong một ngày!
Tôi không phải là một nhà tranh đấu cho nữ quyền, nhưng hễ cứ thấy cảnh phụ nữ bị dụ dỗ, lừa gạt hay đối xử bất công thì tôi lại phẫn nộ. Lúc ông Tony Abbott còn làm thủ lãnh đối lập, tôi không mấy thiện cảm với thủ tướng Julia Gillard khi bà lên tiếng mạt sát ông giữa Quốc hội và tố cáo ông là một tên kỳ thị và miệt thị phụ nữ. Nhưng nay, cùng với ký giả truyền hình Lisa Wilkinson, tôi cảm thấy “thất vọng” khi nhìn vào nội các của thủ tướng Abbott: trong số 20 vị tổng trưởng chỉ có độc một người phụ nữ là bà Julie Bishop, tổng trưởng ngoại giao. Mà vì là tổng trưởng ngoại giao nên cũng coi như không mấy khi hiện diện trong nội các.
Cùng với nữ ký giả này, tôi lại càng “thất vọng” hơn khi thấy “có rất nhiều thiếu nữ mới lớn, bị bắt làm con tin và nhào nặn bởi cái nhìn của người khác trên các trang mạng xã hội đến độ không còn biết mình là ai”.
Tôi cũng “thất vọng về nền văn hóa “Instagram” trong đó các thiếu nữ học cách cởi bỏ quần áo càng nhiều càng tốt để được càng nhiều người “thích” càng tốt mặc dù rất thường cái đám  khán giả ấy lại toàn là người lạ mặt”, phải chăng đó là phương cách để các thiếu nữ tạo sự tự tin? (News Review, Sydney Morning Herald, 26-27/10/2013)
Sang thế kỷ 21, chuyện nam nữ bình quyền vẫn chỉ có trên lý thuyết. Tại nhiều nơi, vì truyền thống văn hóa hay tôn giáo,  phụ nữ vẫn còn bị xem là một thứ công dân hạng hai. Ở một nước văn minh, giàu có như Á rập Saudi, dù có tranh đấu cách mấy, phụ nữ cũng vẫn không được phép lái xe. Thật ra, ngay cả trong những xã hội văn minh tiến bộ nhứt thế giới, như tại Úc Đại Lợi này, nam nữ cũng vẫn chưa được đối xử đồng đều về lương phạn. Ngay cả trong một số Giáo hội Ki-tô giáo, dù có đưa ra bao nhiêu lý lẽ để biện minh và giải thích về sự khác biệt về vai trò trong Giáo hội, Giáo hội cũng vẫn tiếp tục xây dựng và duy trì hình ảnh của một Giáo hội của đàn ông; tiếng nói cuối cùng trong Giáo hội vẫn mãi mãi là tiếng nói của các bậc “tổ phụ”.
Tôi ngưỡng mộ xã hội Thụy Điển là nơi có tỷ lệ phụ nữ tốt nghiệp đại học cao nhứt thế giới và là nơi hiện chính phủ đang cố gắng san bằng những cách biệt về rất nhiều phương diện giữa nam và nữ. Tuy nhiên, có một cuộc thử nghiệm mà tôi cho là đáng lo ngại hiện đang được thực hiện tại nước này.
Một buổi chiều Chúa nhựt nắng ấm trong tháng 9, một bé gái 5 tuổi chơi trong một cái hộp lớn có chứa đựng nhiều bùn hơn cát. Nó làm bẩn bộ áo đầm màu hồng của nó. Rất có thể cha mẹ đứa bé sẽ la rày nó. Nhưng tại trường mầm non Nicolaigarden ở Stockholm, chẳng có cô giáo nào quở trách em và chắc chắn cũng chẳng có ai nói với em rằng con gái không nên chơi như con trai. Thật vậy, tại trường mầm non Nicolaigarden, người ta cũng cố gắng không xử dụng ngay cả từ “con gái” nữa. Và dĩ nhiên, từ “con trai” cũng chẳng hiện hữu trong trường này.
Một trong những đồ chơi phổ biến nhứt trong trường là những con “búp bê” nam không ra nam và nữ cũng chẳng ra nữ. Nói cách khác, đó là những con búp bê tóc vàng hoe trông rất “bắc âu” và trần truồng nhưng không thuộc giới tính nào cả.
Theo phóng viên Lisa Abend của tạp chí Time, trường mầm non Nicolaigarden có thể là mô hình mà người ta đang muốn kiến tạo cho toàn Thụy Điển. Với quyết tâm thực hiện tới cùng điều được gọi là “bình đẳng giới tính”, Thụy Điển gọi đó là “trung tính về giới tính”.
Theo phóng viên Lisa Abend, chỉ cần sống vài ngày tại Thụy Điển, du khách đã có thể nhận ra nhiều nỗ lực xóa bỏ những phân biệt về phái tính. Trong Anh ngữ và hầu hết các tiếng Tây Phương, có những đại danh từ phân biệt rõ ràng phái tính. Tiếng Pháp có “il, lui, elle”; tiếng Anh có “he, she, him, her”. Tiếng Thụy Điển cũng có những đại danh từ chỉ phái tính như “han” (nam) và “hon” (nữ). Nhưng nay, thay cho hai đại danh từ này, các nhà làm luật đã bắt đầu xử dụng đại danh từ “hen” (không nam không nữ) trong Quốc hội.
Trường học là môi trường đầu tiên được các nhà lập pháp Thụy Điển cho áp dụng “trung tính về giới tính”. Ngoài trường mầm non Nicolaigarden, còn có 5 trường khác tại Stockholm hiện cũng đang thí nghiệm chương trình “trung tính về giới tính” này (Time 4/11/2013).
Thật ra, tìm cách áp đặt “trung tính về giới tính” là một nỗ lực của “chủ nghĩa” nữ quyền tại Thụy Điển. Chủ nghĩa này hiện đang được xem như một thứ quốc giáo của quốc gia này. Chủ trương của những người theo chủ nghĩa này không chỉ là tranh đấu cho sự bình đẳng nam nữ mà còn xóa bỏ mọi khác biệt về giới tính.
Tôi không phải là thành viên của bất cứ phong trào tranh đấu cho nữ quyền nào. Nhưng tôi tin rằng thế giới này sẽ là một nơi tốt đẹp hơn khi sự bình đẳng giữa nam nữ được thực hiện và tôn trọng, khi không còn ai nhân danh truyền thống văn hóa hay tôn giáo nào để triệt hạ, xúc phạm phẩm giá người phụ nữ. Nhưng tôi cũng tin rằng thế giới này sẽ mãi mãi tốt đẹp nếu những khác biệt phái tính luôn được tôn trọng. Bởi lẽ không nhất thiết phải xóa bỏ giới tính để tôn trọng giới tính. Tôn trọng giới tính là biết tôn trọng người khác theo những cá biệt độc nhứt vô nhị của người đó bao gồm cả đặc điểm đi kèm với giới tính. Khi tìm cách xóa bỏ dị biệt về giới tính, người ta tôn trọng nhau theo cái kiểu “cá mè một lứa”, không hơn không kém.
Thật là buồn và phiền khi những khác biệt giới tính bị xóa bỏ. Vì hội đồng thành phố chỗ tôi ở không cho tôi nuôi gà cồ cho nên suốt ngày tôi chỉ còn nghe tiếng rên rỉ và “chửi” nhau ỏm tỏi của các chị gà mái. Trứng do các chị đẻ ra, vì thiếu gà cồ, cho nên chẳng mang lại được một mầm sống mới nào cả. Muốn có gà con, tôi phải lặn lội đến các nông trại để mua trứng có cồ về ấp. Các chị gà mái của tôi vì thiếu cồ cho nên đành phải chịu cảnh tuyệt tự.
Mà đâu chỉ trong thế giới loài vật, sự xóa bỏ những khác biệt giới tính trong giới thực vật cũng tạo ra bao nhiêu phiền phức cho tôi. Thỉnh thoảng ăn được những trái cây ngon, tôi lấy hột đem trồng. Cứ tưởng như hồi còn ở Việt Nam, cây nào thì đương nhiên phải cho giống đó. Ngờ đâu, trúng thứ hột đã bị biến đổi di truyền (G.E: Genetic engineering) cho nên cây tốt tươi và khỏe mạnh nhưng hoàn toàn “tuyệt tự”, chẳng ra được trái nào cả. Đúng là thứ cây “đực chẳng ra đực mà cái chẳng ra cái”.
Trong số ra mới nhứt, tạp chí “Diggers” (chuyên cổ võ việc trồng cây trái và hoa quả “Heirloom”, nghĩa là chưa bị biến đổi di truyền), có đăng một bài với tựa đề “Đời sống giới tính của cây cối” (sex life of plants). Tác giả của bài báo, ông Clive Blazey giải thích rằng “giới tính” là điều rất quan trọng cho thú vật cũng như thực vật. Vì vậy, dù cho cây trái thường có hoa đực và cái trên một cây nhưng cấu trúc của chúng cũng cố tình tránh sự tự thụ phấn nhưng khuyến khích côn trùng làm công việc mai mối từ cây này sang cây khác.
Tôi nhìn thấy rõ điều đó qua hai cây táo “lùn” (dwarf) trong vườn. Người bán cây khuyên tôi phải trồng hai cây một lúc và bên cạnh để chúng nó có cơ hội làm “sui” với nhau. Mùa xuân này, tôi nhận thấy nhờ ra hoa một lúc mà cả hai cây đều đậu trái, những hoa ra sớm hơn hay muộn hơn đều không đậu trái. Tôi cũng có trồng một lúc hai cây “Kiwi”. Người bán cây cũng xác nhận rằng phải trồng một lúc một cây đực và một cây cái thì mới hy vọng có trái mà ăn. Còn với cây chà là, vốn xuất thân từ những vùng sa mạc Trung Đông, thế giới hồi giáo, cho nên một cây đực lại có thể giúp thụ tinh cho đến cả chục cây cái!
Thế giới loài vật, thế giới cây cỏ và thế giới loài người không những tồn tại mà còn làm đẹp bộ mặt trái đất là nhờ những khác biệt giới tính. Nói chung, bộ mặt thế giới càng đa dạng và dị biệt thì càng đẹp. Loài hoa nào cũng có một chỗ đứng riêng trong vườn hoa. Điều này lại càng đúng hơn cho thế giới loài người. Trong hơn 7 tỷ người đang có mặt trên trái đất, không ai có thể tìm thấy hai người giống nhau như đúc. Mỗi người, bất luận nam nữ, tuổi tác, sắc đẹp, sức mạnh thể lý, trí thông minh, địa vị xã hội...đều có một phẩm giá như nhau, nhưng đồng thời lại có một vai trò, một chỗ đứng và nhứt là một giá trị bất khả di nhượng. Tôi hãnh diện về bản sắc của tôi và tôi tin rằng thế giới này sẽ là một nơi đáng sống hơn nếu tính độc nhứt vô nhị của mỗi người được nhìn nhận và tôn trọng.
Trong mắt tôi phụ nữ ở tuổi nào cũng đẹp. Cái đẹp của họ phát tiết từ những nữ tính độc đáo của họ: chu đáo, tế nhị, ngọt ngào, nhẹ nhàng, đon đả, kiên nhẫn, chịu đựng, hy sinh...Với tôi, đó là những “sắc đẹp” và “thời trang” đặc biệt mà không người đẹp Melbourne Cup nào sánh bằng. Đó cũng là lý do mà không riêng cá nhân tôi, ai cũng cảm thấy rằng thế giới này sẽ vô cùng bi thảm nếu không còn sự hiện diện của những người phụ nữ đúng nghĩa.  





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét