Chu
Thập
11.12.12
Thế
giới này sẽ qua đi. Đó là điều mà một người tín hữu Kitô như tôi phải tuyên
xưng mỗi khi tham dự Thánh lễ Ngày Chúa Nhựt. Thật ra, đây không phải là niềm
tin “độc quyền” của các tín hữu Kitô.
Một
dạo, như được phản ảnh qua ca khúc “Năm 2000 năm” rất thịnh hành trước năm 1975,
nhiều người Việt nam cũng đã có một thời tin rằng thế giới sẽ tận cùng vào năm
2000. Mà đâu riêng gì người Việt nam. Cả thế giới đã gần như lên cơn sốt vì sự
đe dọa của con “Bọ Y2 K” (Y2K bug). Chẳng ai biết tận thế sẽ xảy ra vào ngày giờ
nào. Nhưng lo sợ về một ngày tận cùng do chính con người tạo ra là điều dễ hiểu.
Kỹ thuật của con người, dù có tiến bộ đến
đâu, cũng vẫn đầy dẫy những bất trắc không lường trước được. Một chút sơ sẩy
trong kỹ thuật, một thiên tai, một dịch bịnh vuột tầm kiểm soát và nhứt là sự
ngông cuồng của một tên đồ tể đang nắm trong tay vũ khí giết người hàng lọat, cũng
đủ khiến cho loài người biến khỏi mặt đất này. Ngày nay, hiện tượng trái đất bị
hâm nóng và thời tiết thay đổi mà bị coi là do chính con người tạo ra cũng đang
là một mối lo cho nhân loại. Thiên tai, bão lụt, hạn hán...có thể là một điềm
báo cho một thảm họa không lường trước được. Đứng trước thân phận mong manh bất toàn của
con người mà một “cơn gió thoảng cũng làm
nó biến đi, nơi nó mọc sẽ không còn mang vết tích”, viễn ảnh của một ngày
thế tận hay một cuộc tự hủy lúc nào cũng rình rập đâu đó.
Nhưng
ngay cả khi không phải suy nghĩ về thân phận mong manh của con người và tính bất
toàn của văn minh kỹ thuật, những lời “tiên tri” vô căn cứ về một ngày thế tận
lúc nào cũng có sức hấp dẫn đối với nhiều người. Như mới đây chẳng hạn, nhiều
người đã dựa vào lịch của người Maya (một nền văn minh đã xuất hiện tại Châu Mỹ
Latinh cách đây trên 4 ngàn năm) để loan báo một cách chắc nịch rằng ngày thứ Sáu 21 tháng 12 tới đây sẽ là ngày tận
thế. Đã bảo là tận thế, nhưng vẫn có nhiều người tin là còn có “lối thoát” cho
nên mới phóng tin rằng ngọn núi Pic de Bugarach
nào đó ở miền Tây Nam nước Pháp sẽ là nơi trú ẩn an toàn để tránh khỏi cuộc diệt
vong. Báo hại, số người tìm đến nơi trú ẩn này đông quá khiến cảnh sát Pháp và
chính quyền địa phương phải làm việc mệt nghỉ. Những tin đồn đại loại như thế năm nào cũng trở
lại và cũng có khối người tin. Dĩ nhiên, tin càng nhảm thì càng được đồn thổi
nhanh cho nên số người tin và sợ hãi lại càng đông . Ngay cả ở một nước Úc đại
lợi “khô đạo” này, tin về ngày tận thế gây xôn xao đến nỗi ngay cả bà thủ tướng
Julia Gillard cũng phải lên tiếng “bông đùa” cho vui trong gần một phút đồng hồ.
Thật
ra, về ngày thế tận, không chỉ có những lời tiên tri nhảm. Chính các nhà khoa học
cũng đã báo trước về một thảm họa sẽ xảy ra cho nhân loại trong năm 2013 sắp tới.
Chẳng hạn cơ quan nghiên cứu không gian NASA của Hoa kỳ mới đây đã chính thức
thông báo rằng trong năm 2013, trái đất của chúng ta sẽ bị chấn động bởi một vụ
nổ trong mặt trời. Cơn bão mặt trời này dĩ nhiên tạo ra những cơn sóng điện từ
mạnh và bất ngờ có khả năng phá hủy bất cứ dụng cụ điện tử nào. Nếu không được
chuẩn bị để đối phó, các hệ thống thông tin liên lạc vệ tinh sẽ bị phá hủy hoàn
toàn; hệ thống máy tính toàn thế giới sẽ bị tê liệt; nhiều vùng sẽ mất điện;
các hệ thống an ninh của các quốc gia sẽ bị tê liệt trong một thời gian không
xác định, hệ thống ngân hàng cũng sẽ ngưng hoạt động.
Theo
các nhà khoa học, vụ nổ hay cơn bão mặt trời này có sức công phá tương đương với
100 quả bom khinh khí Hydrogen.
Dĩ
nhiên, các nhà khoa học không bảo rằng thảm họa này sẽ là ngày tận thế. Dù sao,
bằng chứng và luận cứ khoa học lúc nào cũng đáng tin.
Đọc
các bản tin khoa học, một người tín hữu Kitô như tôi cảm thấy vững tin hơn khi
đến nhà thờ tuyên xưng niềm tin vào ngày thế tận. Trước kia, các nhà vật lý học
cho rằng sự vận hành của các ngôi sao và hành tinh diễn tiến theo một trật tự
thường hằng, bất biến, vô tận. Ngày nay, dựa vào những khám phá mới về một “khởi đầu” của vũ trụ, một cách cụ thể dựa
vào thuyết Big Bang (tức vụ “nổ nguyên thủy” cách đây trên dưới 14 tỷ năm) các
khoa học gia đã có một cái nhìn mới về sự vật. Điều gì có khởi đầu ắt phải có
cùng. Giữa khởi đầu và kết thúc có một quan hệ mật thiết. Trước kia, triết gia
Hegel của Đức vào thế kỷ 18 bảo rằng “thiên nhiên không có lịch sử”, nghĩa là
chẳng có khởi đầu và cũng chẳng có tận cùng. Nhưng nay khoa học lại chứng minh
rằng không những thiên nhiên, tức thế giới của sự sống có một lịch sử, tức lịch
sử của tiến hóa, mà ngay cả trong lãnh vực vật lý, lịch sử của vũ trụ cũng là lịch
sử của sự thoái biến, tuy rất chậm rãi,
nhưng không thể đảo ngược được. Nói cách khác, năng lượng thoát ra từ Big Bang
đang nguội dần. Mà đã có nguội thì đương nhiên sẽ đến lúc phải tắt lịm. Cái khối
lửa mặt trời mà sự sống trên trái đất của chúng ta tùy thuộc vào rồi cũng sẽ có
ngày tàn lụi. Hiện tượng “nguội dần” ấy của vũ trụ cũng có giá trị cho tất cả mọi
sinh vật, nhất là con người. Sinh diệt là một trong những điểm căn bản trong
giáo lý Nhà Phật. Có sinh ra thì đương nhiên phải chết. Đó là quy luật muôn đời
mà tạo vật nào cũng phải tuân theo. Bước vào tuổi già như tôi, người ta dễ chấp
nhận quy luật ấy. Ngày nay, tuổi thọ con người càng lúc càng được kéo dài. Cái
chết và sự lão hóa được đẩy lùi thêm vài bước. Nhưng mầm mống của tuổi già và sự
chết đã nằm ngay trong bản chất của sự sống. Đâu phải trên 6 bó như tôi mới là
già. Mới đây, tôi đọc được đâu đó một vài dữ kiện đáng suy nghĩ như: não và phổi
của con người bắt đầu già khi bạn chỉ mới 20 tuổi, xương và ruột thì bắt đầu
già khi bạn 35, vú của người phụ nữ lão hóa ở tuổi 35, mắt tim nối gót ở tuổi
40, thận cầm cự đến 50 thì bước qua bên kia đồi, dẫn theo bàng quang vào tuổi
65. Chỉ có gan là “gan lỳ” cho nên chỉ chịu già ở tuổi 70. Da vốn là biểu hiệu
của tuổi trẻ lại già đi ở tuổi 20, tóc có khá hơn một chút, nhưng cũng không bước
sang tuổi 30...Đâu cần phải đợi đến lúc đầu bạc răng long, bước vào tuổi đôi
mươi người ta đã có quyền cất tiếng “già
ơi, chào mi” rồi. Còn nếu muốn có giọng triết gia một chút thì có lẽ tôi phải
bắt chước ai đó để than thở “con người
sinh ra là để chết”. Đó là một sự thực không thể chối cãi được: càng thêm
tuổi, càng tiến gần đến cái chết! Tôi càng lớn các tế bào trong thân thể tôi
càng giảm chớ không tăng. Dưới ánh sáng khoa học, thân thể tôi là một thứ vũ trụ
nhỏ đang nguội dần. Thế tận của thế giới thì không đoán được nhưng của chính bản
thân của tôi thì không cần làm thầy bói, tôi cũng biết chắc không thể hơn 100
năm nữa.
Khoa
học quả thật soi sáng cho niềm tin của tôi, bởi vì lý trí của một người có niềm
tin tôn giáo như tôi không hề và không được phép đi ngược lại hay chối bỏ khoa
học. Tuy nhiên, đã nói đến “tin” thì không cần phải “thấy”. Nói cách khác, tôi
tin có thế tận không phải vì những khám phá và luận cứ khoa học, mà vì Đấng Cứu
Độ của tôi đã phán dạy như thế.
Trong
các lời giảng dạy của Ngài, thế tận có một chỗ đứng quan trọng. Hẳn Ngài đã nói
đến điều này rất nhiều lần và các môn đệ của Ngài đã rao truyền điều đó cho nên
cuộc sống của các tín hữu tiên khởi được xây dựng và xoay quanh niềm tin ấy.
Trong
4 chúa nhựt trước Lễ Giáng Sinh, đến nhà thờ, tôi thường nghe bài thánh ca có một
câu bằng tiếng Hy Bá Lai, tức tiếng Do thái cổ dùng nói vào thời Chúa Giêsu,
như sau: “Marana tha!” Theo giải thích
thì đây là một lời van nài khẩn thiết của các tín hữu Kitô tiên khởi: “Lạy
Chúa, xin hãy đến!” Vào thời đó, người ta tin rằng ngày thế tận sắp xảy ra và
Chúa sẽ trở lại. Tin tưởng như thế cho nên họ mới bán nhà cửa, của cải, gom
chung lại và sống như một gia đình lấy tình huynh đệ, yêu thương làm mối giây
ràng buộc duy nhứt. Một cuộc sống như thế quả là lý tưởng, nhưng không phải dễ.
Chính vì thế mà mới sinh ra tệ trạng ăn không ngồi rồi, rỗi hơi dài chuyện, xía
vô chuyện người khác. Các môn đệ của Chúa Giêsu đã phải lên tiếng cảnh cáo và
giải thích cho các tín hữu tiên khởi hiểu rằng sống như thế không phải là chờ đợi
Chúa. Các ngài dạy rằng cần phải có thái độ tích cực trong chờ đợi, nghĩa là cần
phải thực thi bác ái và đón nhận Chúa đang đến trong từng biến cố và từng phút
từng giây của cuộc sống.
Đây
cũng chính là lời giảng dạy mà tôi cũng thường nghe các linh mục lập lại trong
những ngày chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Ngày thế tận gắn liền với sự trở lại của
Chúa. Mà bởi thế tận lại đang diễn ra trong bản thân tôi và trong cuộc sống hằng
ngày của tôi cho nên thật là hợp lý để bao lâu còn sống tôi đều phải đón nhận
Ngài trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống của tôi. Tôi tin rằng số phận của tôi
bên kia cõi chết tùy thuộc vào thái độ ấy.
Trong
các thánh lễ, tôi thường nghe linh mục nhắc đến một số “linh hồn” mà người thân
dâng một số tiền để xin cầu nguyện cho được chóng về thiên quốc. Tôi liên tưởng
đến một giai thoại của Nhà Phật đọc được đâu đó. Một ngày nọ, có một người
thanh niên đến gặp Đức Phật và trình lên Ngài: “Bạch Thế Tôn, cha con vừa mới
chết. Xin mời Đức Phật đến và cầu nguyện cho cha con được siêu thoát. Những người
Bà La Môn cử hành nghi thức này. Bạch Thế Tôn còn mạnh hơn nhiều. Nếu Ngài làm
điều đó thì chắc chắn linh hồn của cha con sẽ thẳng về nơi cực lạc”.
Đức
Phật trả lời: “Rất tốt, hãy đi ra chợ và mua về cho ta hai cái bình đất và một
ít bơ”. Người thanh niên tỏ vẻ sung sướng vì được Đức Phật hạ cố thi hành một số
thần thông để cứu linh hồn của cha mình. Anh ta vội vã ra phố và mua các thứ mà
Đức Phật dặn. Khi người thanh niên trở lại, Đức Phật bảo anh ta nhét bơ vào một
bình và cho đá vào một bình khác. Sau đó, Ngài ra lệnh cho anh ném cả hai cái
bình xuống ao. Người thanh niên làm theo và nhận thấy cả hai bình đều chìm xuống
ao. Rồi Đức Phật bảo: “Bây giờ con hãy lấy một cái gậy và đập vỡ cả hai bình
đang chìm dưới nước”. Người thanh niên làm theo. Hai cái bình đều bị đập vỡ: bơ
thoát ra và nổi trên mặt nước, còn đá thì chìm lỉm dưới đáy ao.
Đức
Phật liền dạy: “Bây giờ con hãy mau mau đi gặp các thày tu Bà la môn, mời họ đến
và xin họ tụng kinh để bơ chìm xuống và viên đá được nổi lên”. Người thanh niên
sửng sốt nhìn Đức Phật và thắc mắc: “Bạch Đức Thế Tôn, Ngài có nói thật không ạ.
Chắc chắn Ngài không thể trông chờ bơ nhẹ mà chìm và đá nặng thì nổi. Điều đó
ngược lại với quy luật tự nhiên”.
Lúc
bấy giờ Đức Phật mới mỉm cười giải thích: “Này con, con đã thấy: nếu cha con có
một cuộc đời lương thiện thì những hành vi của ông cũng nhẹ như bơ. Cho dù thế
nào đi nữa, thì ông cũng được siêu thoát; không ai có thể cản được, ngay cả đến
ta. Không ai có thể chống lại Nghiệp luật thiên nhiên. Nhưng nếu cha con có một
cuộc đời bất thiện thì cũng giống như hòn đá nặng kia, cha con sẽ bị chìm vào địa
ngục. Dù tụng kinh nhiều đến đâu đi nữa bởi tất cả các thày tu trên thế này
cũng không thể đảo lộn được.”
Tôi
không có ý ghi lại câu chuyện trên đây để tẩy chay truyền thống “xin lễ” cầu
nguyện cho người quá cố trong Giáo hội công giáo. Câu chuyện chỉ gợi lên cho
tôi một suy nghĩ: niềm tin vào ngày thế tận gắn liền với niềm tin vào sự sống
vĩnh cửu. Tận thế không phải là chấm hết và chết cũng không phải là hết đời! Mọi
sự đều qua đi. Duy chỉ có tình yêu thương mà tôi thể hiện trong cuộc sống hằng
ngày mới làm cho tôi trở thành bất diệt và nói như linh mục dòng tên kiêm nhà
khảo cổ sinh vật học Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955) “tình yêu là ngưỡng cửa dẫn vào một vũ trụ
khác”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét