Thứ Hai, 5 tháng 12, 2016

Cuba: một nhà độc tài, ba thế hệ


02.12.16
Ngày 8 tháng Giêng năm 1959, khi ông Fidel Castro khải hoàn dẫn đoàn quân cách mạng tiến vào Thủ đô Havana thì người thanh niên Juan Montes Torre vui mừng chạy ra các ngã phố để đón chào người anh hùng cách mạng. Là một nông dân nghèo, thất học, Juan đã rời bỏ một vùng quê ở mạn Đông Cuba để về thủ đô tìm việc làm cách đó vài năm. Và cũng như hầu hết những người láng giềng của anh, anh không thể nào tin được điều đang xảy ra trước mắt mình.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo The New York Times, ông Juan kể lại rằng chiến thắng của ông Fidel Castro vừa tạo ra ngạc nhiên vừa làm cho nhiều người cảm động. Dưới con mắt của Juan, tất cả những đồng chí của ông Castro cũng như ông, đều ăn mặc rách rưới và để râu ria. Nhưng ông nói: “Nhân danh giai cấp nghèo, họ đã chiến thắng!”
Kể từ lúc đó, người thanh niên 25 tuổi đã trung thành với lãnh tụ muôn vàn kính yêu của mình cho đến khi khi ông trút hơi thở cuối cùng hôm thứ Sáu 25 tháng 11 vừa qua, hưởng thọ 90 tuổi. Với Juan, cuộc cách mạng của ông Castro đã giúp ông được ăn học,  có một ngôi nhà và trở thành một cảnh sát viên và nhất là đôi khi được vinh dự canh gác cho lãnh tụ vĩ đại.
Ông Juan Montes Torre nghe nói đến những nhà cách mạng “để râu” lần đầu tiên khi ông đi hái cà phê và trái cây tại một vườn cây ăn trái ở tỉnh Guantanamo, miền Đông Cuba. Đó là khoảng đầu thập niên 1950. Lúc đó, những người nông dân nghèo đã bắt đầu liên kết với nhau để chống lại giới địa chủ giàu có. Ông Castro là một trong nhiều lãnh tụ đã đứng lên tranh đấu cho giới lao động có được những điều kiện sống và làm việc tốt đẹp hơn.
Ngày 26 tháng 7 năm 1953, Castro đã lãnh đạo một cuộc tấn công mạnh vào các trại binh sĩ tại Santiago de Cuba. Hiện nay Santiago de Cuba là thành phố lớn thứ hai của Cuba. Cuộc tấn công đã thất bại. 3 tháng sau ông bị đưa ra tòa để xét xử. Là một luật sư, ông Castro đã tự biện hộ cho mình bằng một bài diễn văn dài trong đó có một câu để đời: “Lịch sử sẽ xá tội cho tôi”. Kể từ lúc nghe được bài diễn văn ấy, người thanh niên nghèo Juan đã quyết định rời bỏ vùng quê nghèo của mình để lên Thủ đô Havana. Dĩ nhiên để âm thầm ủng hộ ông Castro và các du kích quân của ông.
Ông Juan giải thích rằng vào thời đó, Cuba là một nước ngập tràn bất công. Tội ác xảy ra khắp nơi. Nhưng chính phủ hoàn toàn không màng đến dân chúng.
So sánh với các nước láng giềng, Cuba vẫn còn là một nước khá giả. Lợi tức đầu người của người dân Cuba vào năm 1958 cao hàng thứ 3 tại Châu Mỹ La Tinh, chỉ thua Argentina và Venezuela. Nhưng kinh tế Cuba lại dậm chân tại chỗ và khập khiễng vì bất công. Tại những vùng nông thôn như nơi ông Juan sinh ra và lớn lên, hơn 90 phần trăm căn nhà không có điện. Còn tại Thủ đô Havana thì bên cạnh những chiếc xe Cadillac sang trọng là cả một đám người ăn xin.
Sau khi cướp được chính quyền hồi năm 1959, lãnh tụ Castro hứa hẹn sẽ làm những cuộc thay đổi tận gốc rễ. Vài ngày sau khi tiến vào Thủ đô Havana, ông Castro đã dõng dạc tuyên bố: “Chúng tôi đã chiến đấu để mang lại dân chủ và tự do cho dân chúng”. Và theo ông Juan, nhà cách mạng đã làm được điều đó. 5 tháng sau, Chính phủ Castro đã loan báo các chương trình cải cách điền địa để người nghèo được làm chủ đất đai, bắt những người có những chiếc xe đắt tiền phải đóng thuế đến 80 phần trăm. Ngoài ra chính phủ còn dành một ngân sách lớn để giảm thiểu nạn thất nghiệp.
Tháng 12 năm đó, ông Juan được tuyển mộ vào ngành cảnh sát. Kể từ khi đặt chân đến Havana, đây là lần đầu tiên ông có được một nghề nghiệp vững chắc. Sau đó, ông được ăn học miễn phí và học hết chương trình trung học 4 năm. Niềm hãnh diện của một người được nâng lên giai cấp trung lưu có thể đọc được xuyên qua những bức hình của gia đình, đặc biệt là hình của người vợ đang mang các sợi giây chuyền óng ánh mỉm cười bên cạnh người chồng. Mặc dù đã bước vào tuổi bát tuần, người môn đệ trung thành của lãnh tụ kính yêu vẫn nói về những năm đầu khi bước chân vào ngành cảnh sát với tất cả niềm hăng say của một thanh niên.
Nhìn từ bên ngoài, cách riêng từ Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Chủ tịch Castro xem ra đã đảo lộn hệ thống tư pháp tại Cuba. Ông ra lệnh xử tử các đối thủ mà không cần một cuộc xét xử nào. Nhà tù không còn chỗ chứa những người bất đồng chính kiến. Tuy nhiên, ông Juan lại nói rằng lực lượng cảnh sát mà ông là nhân viên, trước kia gồm toàn một lũ đầu trộm đuôi cướp, dưới thời ông đều trở thành chuyên nghiệp. Theo ông, từ năm 1959 đến năm 1962, tất cả mọi người dân Cuba đều sẵn sàng phục tùng ông Castro. Ông nói rằng chỉ có những người giàu có bị chính phủ Castro truất hữu mới bất mãn mà thôi. Những người này đã đi lưu vong. Được sự yểm trợ của Hoa Kỳ, ngày 17 tháng Tư năm 1961, họ đã mở một cuộc tấn công thường được mệnh danh là “Cuộc tấn công tại Vịnh Con Heo”. Lúc đó, ông Juan đang canh gác tại biệt thự của nữ du kích và người tình của ông Castro là bà Celia Sanchez. Nhưng cuộc tấn công đã hoàn toàn thất bại. Lãnh tụ Castro và người tình của ông chẳng hề hấn gì. Thật ra, trong suốt 50 năm cầm quyền với bàn tay sắt của ông, lãnh tụ Castro cũng đã thoát đến hơn 600 cuộc ám sát do Hoa Kỳ chủ mưu.
Cuộc khủng hoảng về phi đạn hạt nhân do Liên Xô bố trí tại Cuba và cuộc cấm vận kinh tế do Hoa Kỳ áp đặt lại càng khiến cho ông Castro siết chặt an ninh và kìm kẹp dân chúng Cuba hơn. Vừa mất tự do vừa túng thiếu, nhưng ông Juan không hề phàn nàn về chế độ cai trị hà khắc của ông Castro. Trái lại, ông lại càng góp một bàn tay vào việc thực thi chính sách ấy. Năm 1970, khi chính phủ Castro tung ra chiến dịch “Cuba phải thu gặt được 10 triệu tấn đường”, chính Juan là người đã canh gác 300 tù nhân chính trị khi họ bị cưỡng bách phải đi chặt mía.
Mặc dù không hề thù ghét các tù nhân chính trị, ông Juan vẫn cho rằng đây là thành phần bất mãn và sai lầm. Ông cũng nghĩ như thế về bà con họ hàng của ông đang sống tại Hoa Kỳ. Ông khẳng định: “Cách mạng là một tiến trình”. Ông vẫn tin tưởng rằng cách mạng mang lại cho mọi người cơ hội để được học hành.
Nhưng cái nhìn của ông Juan về cách mạng không được người con trai của ông là ông Juan Carlos hoàn toàn chia sẻ. Cách đây một thập niên, ông Juan Carlos làm chủ một tiệm ăn. Ông cũng có dư phòng để cho khách du lịch thuê. Sau đó ông nhập quốc tịch Tây Ban Nha. Với sổ thông hành của nước này, ông đã đến Panama để mua một số hàng hóa như quần áo để mang về bán lại tại Havana.
Cũng như bất cứ người dân nào đang sống trong thiên đàng cộng sản, để sống còn Juan Carlos cũng biết luồn lách để làm ăn. Nếu cái nhìn của cha ông về lãnh tụ Castro và cuộc cách mạng do ông này khởi xướng đã được hình thành từ những thay đổi trong thập niên 1960 thì cái nhìn của ông Juan Carlos lại được đánh dấu bởi giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ bao cấp của thập niên 1980 đến thời kỳ đói khổ của thập niên 1990. Đây là lúc chế độ xã hội chủ nghĩa Cuba phải bơ vơ  sau khi Liên Xô sụp đổ. Cuba đã mất đi một quan thày đã cung cấp cho mình mỗi năm khoảng 4 tỷ Mỹ kim vừa tiền mặt vừa hiện vật. Thiếu nhiên liệu, thiếu xà phòng, thiếu thực phẩm, thiếu hầu như mọi sự, kinh tế Cuba đã giảm đi đến 34 phần trăm. Thay vì nhìn nhận tình trạng đói khổ, các viên chức cộng sản Cuba cứ gọi thập niên 1990 là một “giai đoạn đặc biệt”. Bị đặt vào chân tường, Cuba đành phải để cho đồng tiền của đế quốc tư bản là Mỹ kim được tự do lưu hành trong nước và cho phép người dân được tự do kinh doanh trong một số ngành nghề, nhất là kỹ nghệ du lịch. Đây chính là lúc ông Juan Carlos nhảy ra “làm ăn”.
Năm đó ông chỉ mới 31 tuổi. Được tự do kinh doanh và dĩ nhiên suy nghĩ bằng cái đầu của mình, ông Juan Carlos mới nhận ra rằng Chế độ Castro không ổn. Bước vào đời ở tuổi đôi mươi, ông làm việc cho quan thuế. Nhưng trái với cha mình, ông nhận thấy rằng chế độ cộng sản là một chế độ không dân chủ. Chế độ này chỉ thưởng công cho những kẻ câm miệng chứ không phải những người dám lên tiếng để trình bày sáng kiến của mình.
Vì không chấp nhận bị bịt miệng, ông đã rời sở quan thuế. Vài năm sau, ông xin được một việc làm trong các khách sạn. Khi chủ tịch Castro hợp thức hóa các tiệm ăn nhỏ của tư nhân, ông quyết định cùng với vợ mở một tiệm ăn. Nhưng vấn đề là: ông cần phải có giấy phép của điều được gọi là “Ủy ban Bảo vệ Cách mạng” địa phương. Từ nhiều năm nay, Ủy ban này chẳng có nhóm họp gì cả. Do đó, ông ra tranh cử và được dân chúng dồn phiếu cho. Chính vì trở thành chủ tịch “Ủy ban Bảo vệ Cách mạng” ở địa phương mà ông mới có thể mở tiệm ăn.
Nhưng chế độ cộng sản Cuba chuyển mình như rùa. Lên cầm quyền thay anh mình, ông Raul Castro cũng tỏ ra rất dè dặt trong việc cải tổ. Chính phủ vẫn ban hành đủ mọi thứ luật để hạn chế các tiểu thương và hạn chế việc thu mướn nhân viên. Thiết bị nào cũng phải mua của chính phủ và chuyện kiểm soát để đóng cửa xảy ra như cơm bữa. Ông ví von rằng chế độ cộng sản Cuba cũng giống như “một chiếc đàn Accordeon. Họ chỉ hé mở một chút rồi đóng lại, chứ không bao giờ chịu mở hết cỡ”.
Nếu ông Juan Carlos có một cái nhìn không mấy tích cực về chế độ cộng sản thì con gái của ông là cô Rocio cũng có một cái nhìn riêng của mình. Rocio mơ trở thành một sử gia. Trong mắt cô, Cuba là một thứ “luyện ngục”, tức một nơi để thanh luyện và ngay cả trước khi nhắm mắt  đời, Chủ tịch Castro cũng chỉ là một con mọt sách, nghiên cứu trong sách vở hơn là thấy và cảm nghiệm bằng chính con mắt của mình. Cô nhìn nhận: “Fidel Castro đã có một viễn kiến vĩ đại”. Ông cũng đã mang lại một số thành tựu tích cực: người dân Cuba hưởng được giáo dục và y tế miễn phí, tệ nạn xã hội tương đối thấp.
Nhưng chiêm ngắm bức tranh đẹp của Hoa Kỳ do những người bà con ở Miami, Tiểu bang Florida vẽ ra như các trung tâm thương mại, các đại học...Rocio mơ ước càng thoát khỏi Cuba càng sớm. Cô nói rằng thế hệ của cô không màng đến chính trị hay lý tưởng nào cả. Họ chỉ muốn ra khỏi nước. Họ không muốn nghe những bài diễn văn dài đến cả 5,7 tiếng đồng hồ của ông Castro. Họ chẳng màng đến ý thức hệ hay bất cứ cuộc đối đầu nào với thế giới tư bản. Họ chỉ muốn Cuba theo kịp đà tiến của thế giới. Rocio luôn tự hỏi: “Tại sao không được tự do vào Internet? Tại sao không thể vào Facebook để chào hỏi người chị ruột đang ở Tây Ban Nha? Tại sao không được viếng thăm bảo tàng viện Louvre, ngay cả trên  Internet?
Cô cháu nội của ông Juan nói: “Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người đều có quyền có được thông tin mà họ muốn để suy nghĩ và để học hỏi”.
Cũng như ông nội của cô và ngay cả ông Fidel Castro khi họ còn trẻ, cô mong muốn có những thay đổi tận gốc rễ ở Cuba, nhất là sau khi nhà độc tài Castro đã ra đi.
(theo:http://www.nytimes.com/2016/11/27/world/americas/fidel-castro-revolution-50-years-three-generations-one-family)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét