Chu Thập
23.12.16

Tôi không ngạc nhiên tại sao cư dân của xóm tôi không
màng hay không có hiểu biết nào về câu chuyện Giáng Sinh. Cách đây không lâu,
trong chương trình đố vui có thưởng “The Chase” được chiếu trên Đài số 7, người
điều khiển cuộc thi đấu có ra câu đố: người chồng của Mẹ Maria, tức người phụ nữ
đã sinh ra Chúa Giêsu, tên gì? Nếu câu hỏi này được đặt ra trong một chương
trình thi giáo lý cấp vỡ lòng dành cho các thiếu nhi công giáo người Việt Nam ở
Úc, thì chắc chắn chẳng có em nào mà chẳng trả lời được. Vậy mà một người
“Chaser”, tức người được xem là bất cứ chuyện gì “trên trời dưới đất” cũng đều
thông biết cả, lại ú ớ.
Lễ Giáng Sinh ở Úc hay tại nhiều nước Tây Phương khác và
khắp nơi trên thế giới ngày nay có thể là lễ Giáng Sinh không có câu chuyện
Giáng Sinh. Tôi biết có nhiều vị lãnh đạo của Kitô Giáo và nhứt là nhiều chính
trị gia “sùng đạo” hơn cả giáo hoàng, không hài lòng về cách mừng lễ Giáng Sinh
như thế. Như đương kim Tổng trưởng Di trú Úc, ông Peter Dutton chẳng hạn. Ông tổng
trưởng thích đưa ra những lời tuyên bố gây tranh cãi này đã tỏ ra rất khó chịu
khi người ta mừng Giáng Sinh mà chẳng chịu hát bài thánh ca Giáng Sinh nào. Lên
tiếng trong một buổi hòa nhạc nhân dịp cuối năm tại một trường trung học của Tiểu
bang Queensland, ông Dutton đã thắc mắc tại sao không nghe người ta hát bài
thánh ca Giáng Sinh nào cả. Còn lời cầu chúc quen thuộc “We Wish You A Merry
Christmas” thì lại được chế thành “we wish you a happy holiday”. Câu chuyện
Giáng Sinh đã biến mất, mà ngay cả hai tiếng “Giáng Sinh” cũng chỉ còn là “Lễ
nghỉ” mà thôi!
Có lẽ điên tiết chăng, ông tổng trưởng di trú mới lên lớp
để nhắc lại cho cử tọa biết rằng “đại đa số dân Úc muốn nghe các bài thánh ca
Giáng Sinh”.
Viết trên báo The Sydney Morning Herald, số ra ngày 17
tháng 12 vừa qua, một nhà bình luận ký tên là Duncan Fine cho rằng thái độ của
Tổng trưởng Di trú Dutton gợi lại điều thường được gọi là “cuộc chiến về Giáng
Sinh” (the war on Christmas) tại Hoa Kỳ. Từ một thập niên qua, cứ mỗi dạo Giáng
Sinh về, người ta lại thấy nhiều người đứng ra hô hào phải chống lại hay bài trừ
khuynh hướng muốn dẹp bỏ nội dung tôn giáo của ngày lễ. Mới đây, trước một đám
đông ủng hộ viên tại Tiểu bang Wisconsin, tổng thống tân cử Donald Trump đã đứng
trước một hàng cây thông Giáng Sinh để hô hào chống lại khuynh hướng tục hóa lễ
Giáng Sinh. Ông nói rằng ông có mặt trong cuộc biểu tình là để nói “Merry
Christmas” chớ không phải “Happy Holidays”. Cùng với ông, những người tuyên chiến
với phong trào tục hóa lễ Giáng Sinh cho rằng chỉ xem lễ Giáng Sinh đơn thuần
như “một ngày lễ nghỉ” là một hành động xúc phạm đến Kitô Giáo.
Bình luận gia Duncan Fine viết rằng ông rất ngạc nhiên tại
sao Tổng trưởng Di trú Dutton đã tỏ ra rất quan tâm đến ý nghĩa của lễ Giáng
Sinh, nhưng lại tỏ ra dửng dưng và tàn bạo khi đối xử với những người tầm trú tại
Nauru và Manus Island. Và tôi cũng vậy.
Theo ký giả này, “Giáng Sinh thuộc về tất cả mọi người
chúng ta, mang lại niềm hy vọng cho tất cả mọi người chúng ta, bất luận có tôn
giáo hay không. Bởi lẽ, chúng ta dừng lại, quan tâm và nối lại các mối quan hệ
tầm thường nhưng sâu xa trong cuộc sống. Đó là những mối quan hệ làm cho chúng
ta trở nên nhân bản hơn”.
Tôi hoàn toàn chia sẻ quan điểm trên đây của nhà bình luận
Duncan Fine. Giáng Sinh là di sản chung của nhân loại. Mọi người có mặt trên
trái đất này đều có quyền mừng lễ Giáng Sinh theo cách thế của họ. Cho dẫu câu
chuyện Giáng Sinh không được nhắc đến, cho dẫu tên gọi “Giáng Sinh” cũng bị chối
bỏ và ngay cả cho dẫu nhân vật chính của câu chuyện Giáng Sinh là Hài Nhi Giêsu
cũng không được màng tới đi nữa, cho dẫu cuối cùng Kitô Giáo có biến khỏi mặt đất
này, nhưng bao lâu cốt lõi của sứ điệp mà ngày lễ này gợi lên là tình người vẫn
còn đó thì mãi mãi lễ Giáng Sinh sẽ chẳng bao giờ bị xóa bỏ khỏi ký ức chung của
nhân loại.
Xét cho cùng, bao lâu điều quan trọng nhứt trong cuộc sống
con người là tình người còn thì lễ Giáng Sinh, dù có gọi bằng bất cứ danh hiệu nào,
vẫn còn đó. Và dĩ nhiên, được kể lại một cách khác, câu chuyện Giáng Sinh cũng
vẫn còn đó.
Tôi không biết chủ bút của Tạp chí Time, bà Nancy Gibbs,
có cùng một ý nghĩ như tôi không. Trong bài giới thiệu số kép ra cuối năm nay
và đầu năm tới, Chủ bút Tạp chí Time viết rằng “trong cuộc đời của một người phụ
nữ, ít có những giây phút nào đáng sợ hơn cho bằng khi người phụ nữ sinh con,
đưa vào đời người lữ hành mà chị đã cưu mang 9 tháng trời và sau đó lần đầu
tiên trực tiếp gặp gỡ người ấy”.
Đó là cuộc vượt cạn bình thường của bất cứ một người mẹ
nào. Còn khi người mẹ phải vượt biên để đứa con của mình phải chào đời nơi đất
khách quê người, Chủ bút Nancy Gibbs, người có lẽ chưa một lần cảm nghiệm được
thế nào là vượt biên, đã viết rằng bà
không thể hiểu được một tình cảnh như thế. Đúng là đoạn trường ai có qua cầu mới
hay. Chưa một lần vượt biên thì làm sao hiểu được tâm trạng của người tỵ nạn.
Chưa một lần vượt cạn thì làm sao hiểu được nỗi đau đớn của người đàn bà khi
sinh con và nhứt là khi phải cho con chào đời nơi đất khách quê người.
Chính vì muốn đánh động thế giới về thảm kịch của người tầm
trú và tỵ nạn, nhứt là các thai phụ mà tạp
chí Time đã đặt tựa đề cho số báo ra cuối năm nay và đầu năm tới là “đi tìm một
ngôi nhà” (finding home). Và cùng với tựa đề này, Tạp chí Time cho đăng ở trang
bìa hình của một bé gái Syria tên là Heln, chào đời trong một trại tỵ nạn tại
Hy Lạp ngày 13 tháng 9 vừa qua.
Sở dĩ tạp chí Time muốn đánh động thế giới về thảm kịch của
người tỵ nạn và tầm trú là bởi vì, như Chủ bút Nancy Gibbs đã trích dẫn lời của
Đức Phanxicô, sự dửng dưng của con người trước thảm kịch người tỵ nạn hiện đang
bị toàn cầu hóa (globalization of indifference).
Hình ảnh của người phụ nữ phải bỏ nhà cửa để ra đi và
sinh con nơi đất khách quê người, như được Chủ bút Nancy Gibbs gợi lên, không
thể không làm cho tôi liên tưởng đến câu chuyện Giáng Sinh. Theo câu chuyện
này, cách đây hơn 2000 năm, người phụ nữ tên là Maria, đang bụng mang dạ chửa,
đã phải lên đường đi đến một vùng xa xôi và tại đây bà và chồng bà đã đi gõ cửa
mọi khách trọ, nhưng đều nhận được câu trả lời “hết chỗ rồi”. Và chính vì “hết
chỗ rồi” cho nên họ không còn một chọn lựa nào khác là chui vào một chuồng súc
vật. Hài Nhi Giêsu đã chào đời tại đó. Sinh con trong một chuồng súc vật chắc
chắn không phải là một cảnh thi vị như các tín hữu Kitô thường tượng tượng mỗi
khi nhìn ngắm hang đá và máng cỏ dưới ánh đèn mầu.
Câu chuyện Giáng Sinh như đã từng xảy ra cách đây hơn
2000 năm có lẽ cũng được lập lại trong cảnh vượt biên và vượt cạn của những người
phụ nữ tỵ nạn của thời hiện đại. Hài Nhi Giêsu một cách nào đó cũng nhập thể lại
trong bất cứ một thơ nhi nào chào đời trong một hoàn cảnh tương tự hay còn tệ
hơn. Và như vậy, không nhứt thiết phải chờ đến ngày 25 tháng 12, chuyện Giáng
Sinh đã và đang xảy ra hàng ngày và lễ Giáng Sinh cũng có thể được cử hành mỗi
ngày.
Người ta có thể mừng Giáng Sinh mà không biết hoặc vì một
lý do nào đó không màng tới câu chuyện Giáng Sinh. Nhưng lễ Giáng Sinh ngày nay
sẽ hoàn toàn vô nghĩa và niềm vui Giáng Sinh cũng sẽ chỉ là một niềm vui giả tạo
nếu câu chuyện Giáng Sinh của thời đại, như được Tạp chí Time muốn gợi lên,
không được lắng nghe bằng tình liên đới và sự cảm thông. Và dĩ nhiên, cùng với
câu chuyện Giáng Sinh của thời đại, còn có biết bao nhiêu câu chuyện Giáng Sinh
khác xảy ra trong cuộc sống mỗi ngày.
Tôi không có thói quen trưng bày trong nhà hay ngoài ngõ bất cứ biểu tượng nào của lễ Giáng Sinh. Ngay
cả có khi tôi cũng chẳng đến nhà thờ trong ngày lễ Giáng Sinh. Còn thánh ca thì
từ lâu rồi, tôi cũng chẳng còn hát nữa. Tôi có thói quen chào hỏi mọi người dù
quen hay lạ mỗi ngày khi chạy bộ. Thế nhưng mấy hôm nay, tôi có thể tự cảm thấy
được ánh mắt tôi sáng hơn, cái bắt tay của tôi cũng siết chặt hơn và lời chào mừng
một ngày mới của tôi với những người tôi gặp khi chạy bộ trong mùa Giáng Sinh
này cũng chân thành hơn bao giờ hết. Tôi thấy mình càng lúc càng thật sự muốn sống
tinh thần Giáng Sinh hơn là “mừng” Giáng Sinh. Giáng Sinh năm nay, tôi thêm một
tuổi, tôi “già đầu” hơn nhưng tôi vẫn cần đang phải học để làm một người trưởng
thành. Trưởng thành để sống tinh thần Giáng Sinh và chia sẻ niềm vui Giáng Sinh
với tất cả mọi người bất kể họ là ai.
Câu chuyện Giáng Sinh như được Kinh Thánh ghi lại thì dĩ
nhiên, tôi đã thuộc làu. Rất nhiều người cũng thuộc làu. Tôi thấy mình không những
nên suy niệm câu chuyện của 2000 năm trước mà cần phải thao thức và đồng cảm với
những câu chuyện Giáng Sinh của hôm nay. Câu chuyện những hài nhi vượt biên,
câu chuyện những hài nhi chết trôi, những hài nhi mất cha mẹ trên con đường tìm
một mái nhà.
Giáng Sinh đã trở nên đại đồng thì sự thương cảm chẳng lẽ
không đại đồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét