Thứ Tư, 26 tháng 10, 2016

Trồng Cây, Trồng Người




Chu Thập
09.04.13

Người ta thường nói: tuổi đẹp nhứt của đời người là tuổi học trò. Điều đó cũng đúng thôi, vì đó là tuổi ăn chưa no lo chưa tới và nhứt là chưa biết sợ là gì. Thế nhưng, trong cái nhìn của tôi, dưới năm năm sống với Việt cộng sau ngày miền Nam thất thủ, tôi thấy câu nói đó thật là mỉa mai. Mỉa mai hơn khi chỗ nào cũng nhan nhản những tấm băng-rôn với “tư tưởng” Hồ chí Minh: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.  Không cần phải là một người có óc quan sát, ai cũng phải nhận thấy là người cộng sản có một cái tính chung là thích làm khổ người khác, bất luận già trẻ lớn bé. Nhìn cảnh những em học sinh ốm yếu, xác xơ với nét ngây thơ còn nguyên trên mặt mà phải bớt giờ chơi, giờ học hành để đi làm “lao động xã hội chủ nghĩa”, tôi thấy thật tội nghiệp. Bắt học trò đi trồng cây mà toàn lựa những chỗ xương rồng chưa chắc đã mọc nổi. Tôi còn nhớ cảnh các em phải trồng khoai lang khoai mì ở những đồi cát cạnh…bờ biển. Mỗi em na được vài lít nước tưới xuống cát dưới cái nóng và cái gió của bờ biển nhiệt đới. Khoai không đâm rễ lần này thì lại phải gầy lại lần khác. Cứ thế cho đủ số buổi đi lao động. Kết quả lợi ích trồng cây không bao giờ thấy được. “Chân lý” nông nghiệp của mấy ông Việt cộng, “với sức người sỏi đá cũng thành cơm” chẳng bao giờ được chứng minh. Còn lợi ích trồng người thì hầu hết những em học trò đó, ai có cơ hội, đều tự bứng gốc và đem trồng nơi hải ngoại.
Từ những gì đã nhìn thấy, tôi thấy chuyện trồng cây và trồng người chẳng có gì ăn nhập với nhau dưới chế độ cộng sản.
Thuở người Việt mới định cư ở nước ngoài, trồng trọt rau cải và cây nhiệt đới trở thành một nhu cầu. Trồng để có đủ các loại rau ăn như những ngày ở quê nhà. Nhìn cây cối để đỡ nhớ hay để nhớ quê hương nhiều hơn. Đi qua một ngôi nhà với cái vườn rau nhiệt đới nho nhỏ và những giống cây đặc thù trong món ăn Việt Nam thường cho tôi một cảm giác vui như gặp một người thân. Và cũng nhờ cái “tín hiệu” vườn rau đó mà kết quả là người Việt gặp lại bạn bè, đồng đội, hàng xóm, thân nhân và “nối vòng tay lớn”. Như vậy, chuyện trồng cây có thêm công dụng của những chiếc cầu.
Gần đây nhu cầu trồng rau và cây nhiệt đới giảm nhiều. Người ta “làm nông” chỉ còn như một thú vui. Rau cải tươi xanh và rẻ đầy các tiệm thực phẩm Việt Nam. Trái cây thì không còn thiếu một thứ gì. Miền Bắc Úc sản xuất trái cây nhiệt đới còn ngon hơn trái cây nhập cảng. Người trồng rau trái quanh nhà bây giờ có một cái khổ là gặp lúc “trúng mùa” phải năn nỉ nhờ người bà con cô bác ăn dùm. Cái “tín hiệu” vườn rau cũng không còn nhiều nữa. Thay vào đó là những sân xi măng xịt màu xanh, đỏ. So với những ngôi nhà người Việt cách đây vài thập niên, nhà cửa giờ đây đa số khang trang hơn, đẹp hơn, lớn hơn với những cấu trúc tân thời hơn, nhưng cũng bớt vẻ đặc thù hơn. Người ta không còn xác định vị trí một căn nhà theo kiểu nói “hễ thấy có bụi chuối, bụi mía hay cây ổi cây nhãn gì đó là thì đúng nhà của tui”.
Chọn về ở một nơi xa “đô hội”, xa đồng hương, tôi trở về sống cạnh vườn rau trái như ngày xưa nơi quê nhà. Mỗi ngày khi cuốc đất, nhổ cỏ chăm sóc cái “quê hương bỏ túi” của tôi, tôi thường ngẫm nghĩ đến chuyện trồng cây và trồng người mà tôi tin là có một sự liên hệ và tương tác mật thiết với nhau. Thực ra tư tưởng này không phải của cái ông “Bác Hồ” như ổng tự nhận mà là của ông Quản Trọng (Quản Di Ngô), một tướng tài của Tề Hoàn Công, thời Đông Chu Liệt Quốc, mất năm 645 trước Công nguyên. Nguyên văn câu nói của ông Quản Trọng như sau: “Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc. Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc. Chung thân (hay bách niên) chi kế, mạc như thụ nhân”. Câu nói này nổi tiếng đến độ có dốt Hán văn cách mấy ai cũng hiểu được: “Kế hoạch một năm thì trồng ngũ cốc. Kế hoạch mười năm thì trồng cây. Kế hoạch cả đời hay trăm năm thì trồng người”.
Theo tôi, câu này chẳng có chứa đựng triết lý sâu xa nào cả. Nó chỉ nói lên cái óc thực dụng của người Tàu, dù ở đâu và thời đại nào. Có lẽ tin ở lời khuyên trên đây mà sau này, cũng thời Đông Chu Liệt Quốc, tên lái buôn người nước Triệu tên là Lã Bất Vi mới thuyết phục vua Triệu chuẩn bị cho một người nước Tề đang bị bắt làm con tin là Dị Nhân lên làm vua. Vua Triệu không biết rằng Lã Bất Vi đã “trồng” hạt giống của mình nơi nàng hầu Triệu Cơ. Sau khi Triệu Cơ có mang, Lã Bất Vi mới tìm cách gán cho Dị Nhân. Ông vua này bị cắm sừng mà không biết. Về sau nàng Triệu Cơ sinh ra một người con trai đặt tên là Triệu Chính. Triệu Chính chính là Tần Thủy Hoàng, một trong những hoàng đế đã có công thống nhứt đế quốc Trung Hoa, nhưng đồng thời cũng nổi tiếng là một trong những bạo chúa độc ác nhứt trong lịch sử Trung Hoa.
Rất nhiều người Việt Nam đã đọc truyện Đông Châu Liệt Quốc và biết tên của tể tướng Quản Trọng cũng như câu nói bất hủ trên đây của ông. Vậy mà chứng nào tật ấy, lúc còn bên Pháp thì Hồ Chí Minh đã ngang nhiên cướp tên “Nguyễn Ái Quốc” của một nhóm nhà cách mạng làm của riêng mình, về nước, ông lại cướp tập thơ “Ngục trung thư” của một tù nhân Trung Hoa làm của riêng mình. Cho nên cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ông “cướp” câu nói của Quản Trọng làm của riêng mình.
Vấn đề cần nêu lên là: con người suốt đời dối trá như Hồ Chí Minh đã gieo trồng được gì trên mảnh đất quê hương? Trong nhiều giai đoạn lịch sử, người Việt Nam đã từng trải qua đói kém. Cái đói ở Miền Bắc năm Ất Dậu 1945 do người Nhựt Bổn gây ra quả là kinh hoàng. Nhưng sau năm 1975 thì trên toàn cõi Việt Nam, ai ai cũng cảm nghiệm được thế nào là đói. Một năm, năm năm hay mười năm, kế hoạch trồng bất cứ ngũ cốc hay cây trái nào của chế độ cộng sản cũng đều mang lại đói khổ cho người dân. Kể từ khi cộng sản lên cướp chính quyền tại Miền Bắc và thôn tính Miền Nam đến nay cũng đã gần 70 năm, kế hoạch trồng người của Hồ Chí Minh đã mang lại kết quả như thế nào thì đã rõ: chưa bao giờ con người Việt Nam sa sút về nhân cách và đạo đức cho bằng ngày nay! Cái nguyên mẫu dối trá “Hồ Chí Minh” đã được nhân lên và tràn lan trong xã hội. Người thì hóa ngợm, còn đất đai, tài nguyên, thiên nhiên để gieo trồng thì lại bị hủy diệt. Rừng bị phá hủy, nguồn nước bị ô nhiễm đến mức độ không thể dung thứ được: đây chính là kết quả của không phải mười năm mà là bảy chục năm trồng cây của kẻ đạo văn và đạo tặc Hồ Chí Minh.
Không có nơi nào người ta thấy rõ sự liên kết giữa sự tàn phá thiên nhiên và hủy hoại con người cho bằng tại Việt Nam. Thiên nhiên bị tàn phá, môi trường sống bị hủy hoại thì đương nhiên nhân tính cũng bị thui chột.
Chuyện ấy không chỉ xảy ra ở Việt Nam. Hãy thử nhìn sang Bắc Hàn, quốc gia cộng sản nghèo đói đang gây hoang mang lo sợ cho toàn thế giới hiện nay. Sau 70 năm làm nông nghiệp theo các kế hoạch ngũ niên của mô hình kinh tế tập trung, những hình ảnh hiếm hoi được lọt ra khỏi Bắc Hàn chỉ cho người ta thấy cảnh đồng hoang cỏ cháy, kho lẫm trống trơn, trẻ con ốm đến độ chỉ còn da bọc xương. Bên cạnh một môi trường thiên nhiên ngày càng bị hủy hoại là một rừng người đằng đằng sát khí, xem vũ khí nguyên tử như “lẽ sống” và sẵn sàng chết mà cũng chẳng hiểu chết để làm gì. Trước khi hung hăng muốn ăn tươi nuốt sống người đồng loại, con người đã tác hại chính môi trường thiên nhiên.
Điều đó cũng đúng với một nước cộng sản khổng lồ sắp lên ngôi đệ nhứt cường quốc kinh tế của thế giới là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Để trở thành một cường quốc kinh tế, Trung Quốc phải trả một giá đắt. Chỉ cần nhìn lên bầu trời lúc nào cũng mịt mù hay xám xịt khói bụi ở Bắc Kinh hay những thành phố lớn của Trung Quốc cũng đủ để thấy không khí ở đất nước này bị ô nhiễm như thế nào. Chỉ cần đi dọc theo những dòng sông lớn ở Trung Quốc cũng đủ để thấy nguồn nước ở đây đã bị hoen ố như thế nào.
Dĩ nhiên, người Trung Quốc vẫn tiếp tục gieo trồng. Nhưng tại sao những sản phẩm nông nghiệp mà họ xuất cảng đi khắp thế giới đều bị thế giới tẩy chay? Thưa là bởi vì cũng như các hàng hóa của kỹ nghệ chế xuất, nông sản của họ được sản xuất không theo bất cứ một chuẩn mực luân lý và đạo đức nào. Những con người dối trá, vô đạo được chế độ cộng sản “trồng” từ hơn 70 năm qua chỉ biết làm giàu và làm giàu bằng mọi phương tiện vô đạo.
Ngày nay, kể từ khi Trung Quốc ló cái đuôi bá quyền muốn xâm chiếm toàn bộ Biển Đông, người ta không chỉ thấy một anh khổng lồ muốn lấy thịt đè người. Tôi cho rằng cũng như trường hợp Việt Nam và Bắc Hàn, sở dĩ những người cộng sản Trung Quốc luôn có thái độ hung hăng, hiếu chiến là bởi họ chỉ còn nhìn thấy tham vọng của mình và để đạt cho bằng được thì họ bất kể tất cả. Một chính quyền coi mạng dân như cỏ rác thì đếm xỉa gì đến phúc lợi của thế hệ tương lai để biết quý trọng thiên nhiên hay môi trường sống.
Tôi vẫn luôn xác tín điều đó. Khi con người không “sống chung hòa bình” được với thiên nhiên và môi trường sống là những thứ hiền hòa nhứt và luôn bao bọc họ, họ cũng không muốn và cũng không thể xây dựng hòa bình. Tôi vẫn còn nhớ nội dung Sứ điệp Hòa bình 2009 của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, người vừa từ nhiệm dạo cuối tháng Hai vừa qua. Trong sứ điệp, vị giáo hoàng này viết rằng hủy hoại môi sinh là đe dọa hòa bình và chính sự sống con người.
Nghe có vẻ trừu tượng và viễn vông. Nói đến hòa bình là nói đến chuyện buông khí giới để bắt tay làm hòa với kẻ thù chứ sao lại phải tôn trọng, bảo vệ và yêu thương thiên nhiên. Kỳ thực, nếu trước kia và hiện nay vẫn còn có những người tỵ nạn chính trị, phải rời bỏ đất nước để chạy trốn khỏi một chế độ độc tài, thì ngày nay chúng ta lại phải chứng kiến hiện tượng những người “tỵ nạn môi sinh”. Họ là những người phải rời bỏ đất đai, ruộng vườn, nhà cửa để đi lánh nạn vì đói kém, vì thiên tai do việc khai thác tài nguyên bừa bãi, hủy hoại môi trường sống gây nên. Thế giới luôn bất ổn và bất an mỗi khi có một làn sóng những người phải rời bỏ quê hương của mình để đi lánh nạn. Do đó, khi môi sinh bị hủy hoại thì hòa bình cũng đương nhiên bị đe dọa.
Hòa bình thế giới là chuyện đại sự mà những suy nghĩ hạn hẹp và nông cạn của tôi chẳng giúp giải quyết được gì. Nhưng trong cuộc sống âm thầm xa chốn phồn hoa đô hội này, tôi “ngộ” ra một điều: càng sống gần thiên nhiên, tôi càng thấy bớt cô đơn, bớt bạo động; càng yêu mến thiên nhiên, tôi càng thấy tâm hồn thanh thản; càng sống giữa thiên nhiên, tôi càng thấy dễ gần gũi với người đồng loại; càng tôn trọng và chăm sóc thiên nhiên, tôi càng thấy mình lớn lên thêm trong nhân cách.
Tôi “trồng cây” không chỉ để có được niềm vui thấy và hưởng hoa trái từ công lao mồ hôi của mình hay để bớt nhớ quê hương. Tôi “trồng cây” là để tự “trồng” chính mình. Cây cối mỗi ngày một lớn lên. Tôi  cũng tự nhủ phải lớn lên: lớn lên trong bình an, trong hiếu hòa, trong tình người, trong những gì làm cho tôi “nên người” hơn!




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét