Chu Thập
19.03.13
Tin Giáo hội công
giáo có đức giáo hoàng mới đã trở thành thời sự nóng bỏng trong những ngày qua.
Là người công giáo, tôi không thể không cảm thấy vui.
Kể từ lúc có trí
khôn đến nay, tôi đã trải qua tất cả 7 “triều đại”giáo hoàng. Thập niên 1950,
hình ảnh nghiêm nghị của một Đức Piô XII lúc nào cũng ngự trị trong tâm trí thơ
dại của một tín hữu trẻ con như tôi.Vị giáo hoàng này đã phải đau khổ nhiều vì
Thế chiến thứ hai. Nhưng đau khổ hơn cả có lẽ là do “làm ơn mà vẫn mắc oán”, bởi
vì mặc dù hơn ai hết ngài đã đích thân cứu vớt không biết bao nhiêu người Do
Thái khỏi bàn tay tàn bạo của Đức quốc xã, cho tới nay vị giáo hoàng này vẫn bị
rất nhiều người Do thái trên khắp thế giới và ngay cả quốc gia Israel xem như một
người “đồng lõa” của Đức Quốc Xã.
Năm 1959, một vị hồng
y già được bầu làm giáo hoàng kế vị đức Piô XII lấy tên là Gioan 23. Giáo hội
công giáo vẫn nhớ mãi quyết định lịch sử của ngài khi tuyên bố triệu tập Công đồng
Vatican II để cải tổ Giáo hội. Nhưng riêng tôi, tôi chỉ nhớ về vị giáo hoàng
này như một người cha hiền từ, nhân ái được ngay cả những người ngoài Giáo hội
công giáo kính nể và thương mến. Về người kế vị của ngài là đức Phaolô VI, nếu
phải kể đến một hành động lịch sử đáng ghi nhớ nhứt, có lẽ tôi phải nói đến cái
hôn bình an mà năm 1964 ngài đã vượt qua hàng ngàn cây số để đến Giêrusalem trao
ban với vị đại diện chính thống giáo lúc bấy giờ là Đức thượng phụ Athenagoras:
cái hôn này đã xóa bỏ khoảng cách gần 1000 năm giữa Giáo hội Công giáo và Giáo
hội Chính thống.
Tôi vốn ít chú ý đến
giáo lý cao siêu của các vị giáo hoàng cho bằng cuộc sống và những cử chỉ cụ thể
của các ngài. Lý do đơn giản là tôi làm sao hiểu tới. Chính vì vậy mà mặc dù chỉ
làm giáo hoàng có đúng 33 ngày, Đức Gioan Phaolô I, người kế vị đức Phaolô VI,
đã để lại trong tâm khảm tôi một nụ cười không bao giờ tắt. 33 ngày là một thời
gian quá ngắn để vị giáo hoàng này có thể làm nên “sự nghiệp”, nhưng chắc chắn
nụ cười của ngài vẫn sống mãi và vẫn mang lại vui tươi, phấn khởi, an bình cho
nhiều tâm hồn.
Về người kế vị của
vị giáo hoàng “mỉm cười” này là Đức Gioan Phaolô II, người ta không thể tóm tắt
trong vài hàng di sản quá lớn mà triều đại dài 27 năm của ngài đã để lại. Là một
người đã từng sống dưới chế độ cộng sản như ngài, tôi luôn nghĩ về ngài như vị
giáo hoàng đã góp phần làm sụp đổ các chế độ cộng sản tại Đông Âu và tại Nga là
chiếc nôi khai sinh của chủ nghĩa cộng sản. “Đừng sợ hãi”: đó là sứ điệp đã được
lập lại xuyên suốt triều đại của vị giáo hoàng người Ba Lan này.
Một cách nào đó, mỗi
một vị giáo hoàng đều để lại một dấu ấn lịch sử riêng. Nói về Đức Bênêđictô XVI,
vị giáo hoàng vừa mới từ nhiệm, có lẽ thế giới sẽ quên đi kiến thức uyên bác, lời
giảng dạy thâm sâu của ngài để chỉ nhớ đến một hành động lịch sử của ngài là đã
noi gương thánh Celestino cách đây 600 năm để từ nhiệm. Đây quả là một hành động
lịch sử mở ra một chương mới cho Giáo hội Công giáo: giáo hoàng có thể và nên từ
chức vì lợi ích của Giáo hội!
Có lẽ hành động lịch
sử của Đức Bênêđictô XVI đã dọn đường cho những cải tổ Giáo hội mà Đức tân giáo
hoàng Phanxicô I muốn đẩy mạnh và đẩy mạnh cho tới cùng. Những dấu hiệu cải tổ
sâu rộng trong Giáo hội có lẽ đã được hé mở qua chính danh hiệu “Phanxicô” của
Đức tân giáo hoàng. “Phanxicô” ở đây chỉ có thể hiểu là Phanxicô Assisi vào thời
trung cổ tại miền Assisi, Trung Ý, vị thánh đã sống triệt để sự nghèo khó và nhờ
đó đã giúp thực hiện một cuộc cải tổ lớn lao trong Giáo hội và xã hội lúc bấy
giờ. Sở dĩ tước hiệu “Phanxicô” của Đức tân giáo hoàng gợi nhớ đến vị thánh này
là bởi vì lúc còn làm tổng giám mục tại thủ đô Buenes Aires của Á Căn Đình, vị
giáo hoàng này đã muốn sống như một người nghèo và cho người nghèo. Trái với phần
lớn các vị giám mục công giáo trên khắp thế giới, ngài không sống trong một “tòa
giám mục” nguy nga, sang trọng, mà chọn một chỗ ở đơn sơ. Trái với lối sống của
hầu hết các vị “chủ chăn” trên khắp thế giới, ngài xử dụng các phương tiện di
chuyển công cộng như phần đông dân chúng nghèo. Và nhứt là ngài tự đi chợ và nấu
ăn lấy.
Một bản tin của
Đài BBC đã ghi lại nhiều điều bất ngờ hơn nữa mà Đức Phanxicô đã làm trong 48
tiếng đồng hồ sau khi được bầu làm giáo hoàng. Nhắn gởi các đức giám mục Á Căn
Đình, ngài khuyên các vị không nên lãng phí tiền để về Roma tham dự lễ đăng
quang của ngài, mà hãy dành lại số tiền đó để trao cho người nghèo.
Tiếp tục cuộc sống
đơn sơ như lúc còn ở quê nhà, thay vì lên chiếc xe Limousine sang trọng dành
cho các nguyên thủ quốc gia để đi lại, Đức tân giáo hoàng đã lên xe buýt ngồi
bên cạnh các vị hồng y để đi tham dự buổi cơm tối chung với các vị.
Vài giờ sau khi được
bầu làm giáo hoàng, ngài đã lẻn ra khỏi điện Vatican trong một chiếc xe đơn sơ
để đến cầu nguyện tại một vương cung thánh đường nơi thánh Inhaxiô Loyola, vị
sáng lập Dòng Tên mà ngài là một thành viên, đã từng đến cầu nguyện. Sau đó,
ngài yêu cầu tài xế dừng lại tại một khách sạn dành cho giáo sĩ, nơi ngài đã
trú ngụ vài ngày trước khi vào mật nghị hồng y bầu giáo hoàng. Tại đây ngài đã
trả tiền khách sạn và lấy lại đồ đạc cá nhân.
Ngày hôm sau, một
lần nữa, ngài lại cũng “lẻn” ra khỏi điện Vatican để đi thăm một người bạn đang
nằm nhà thương.
Một bình luận gia
nổi tiếng của nhựt báo Ý “Corriere Della Sera” (người đưa tin chiều) là ông
Massimo Franco đã tiên đoán rằng với Đức Phanxicô “thời đại của Giáo hoàng như là Vua và Tòa Thánh Vatican như một Triều
đình đã chấm dứt”. Tôi tin chắc rằng hình ảnh của một đức giáo hoàng và của
“giáo triều” Roma sẽ thay đổi dưới thời của vị giáo hoàng 76 tuổi này.
Tôi không cảm thấy
thoải mái chút nào mỗi khi phải xử dụng một số danh xưng “nhà đạo”, đặc biệt
trong ngôn ngữ Việt Nam, để nói về vị lãnh đạo của Giáo hội công giáo và các vị
chủ chăn khác. Cách riêng tước hiệu “giáo
hoàng” trong tiếng Việt. Không rõ danh xưng này đã đi vào ngôn ngữ nhà đạo
của người công giáo Việt Nam từ lúc nào, nhưng chắc chắn nó phản ảnh một quan
niệm hoàn tòan trái ngược với Tin Mừng của Chúa Giêsu. “Giáo hoàng” chỉ có thể
hiểu là “ông hoàng” hay “hoàng đế” của một tôn giáo. Mà quả thật, kể từ thế kỷ
thứ IV, khi hoàng đế Constantino của đế quốc La Mã gia nhập Kitô giáo, toàn đế
quốc cũng bị “rửa tội” theo ông và vị giám mục Roma, người lãnh đạo của Giáo hội
công giáo, cũng nghiễm nhiêm trở thành một thứ hoàng đế hay vua các vua trong đế
quốc, với quyền được bổ nhiệm và tấn phong các ông vua trong đế quốc. Trong suốt
hằng bao thế kỷ, rất nhiều vị giáo hoàng đã cư xử như những “ông hoàng” theo
đúng nghĩa. Ngay từ thời hoàng đế Constantino còn sống, người ta cũng đã chứng
kiến một điều nghịch lý. Trong khi chính hoàng đế Constantino ban hành chiếu chỉ
Milano để nhìn nhận tự do tôn giáo trong toàn đế quốc, thì các đức giáo hoàng
vào thời đó lại có chủ trương bách hại đối với bất cứ ai không tuyên xưng niềm
tin Kitô giáo. Các Tòa Điều Tra và các dàn hỏa thiêu dành cho những người “lạc
giáo” vẫn còn đó để làm chứng về một giai đoạn quả đáng hổ thẹn trong lịch sử của
Giáo hội. Cứ dựa theo cuộc sống và giáo
huấn của Chúa Giêsu mà xét, một khi quyền
bính trong Giáo hội nhập nhằng với quyền bính thế trần, thì đây là một trong những
giai đoạn đen tối nhứt trong lịch sử Giáo hội. Mãi cho đến thời tôi đã có trí
khôn, nghĩa là thập niên 1950, tôi vẫn còn tuyên xưng rằng chỉ có một “đường rất
chính rất thật để được lên thiên đàng” là Đạo của tôi; tất cả những người “ngoại
đạo” đều phải sa hỏa ngục cả. Và cũng mãi cho đến thời tôi có trí khôn, mỗi khi
xuất hiện trước công chúng, vị giáo hoàng vẫn còn được người ta khiêng trên một
cái kiệu chẳng khác nào một ông hoàng đế. Có vị vẫn tỉnh bơ để cho người khác
quỳ xuống hôn giày của mình. Có khác gì mấy ông cộng sản Việt Nam đâu. Mấy ông
này tự xưng là “đầy tớ nhân dân” nhưng lúc nào cũng leo lên đầu lên cổ nhân dân
mà cỡi. Còn đức giáo hoàng thì lúc nào cũng ký tên là “đầy tớ của các đầy tớ” (servus servorum) nhưng lại bắt người ta phải
hầu hạ phục vụ mình.
Kể từ thời Đức
Gioan 23, tức đầu thập niên 1960 cho đến nay, Giáo hội công giáo đã làm nhiều
cuộc cải tổ trong cơ cấu tổ chức cũng như trong tinh thần sống Tin Mừng của
Chúa Giêsu. Nhưng chắc chắn đức tân giáo hoàng Phanxicô I hẳn chưa hài lòng với
tình trạng cơ cấu Giáo hội hiện nay. Ngài muốn làm một cuộc cách mạng và cách mạng
theo tinh thần của vị thánh mà ngài đã chọn làm tước hiệu.
Tôi không biết vị
giáo hoàng này có đọc quyển tiểu thuyết có tựa đề “The Poor Man of God” (Người nghèo của Chúa) của văn hào Hy Lạp
Nikos Kazantzakis (1883- 1957) không. Đây là một quyển tiểu thuyết dã sử về
thánh Phanxicô Assisi. Qua tác phẩm, vốn cũng gây nhiều tranh luận như cuốn
“Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu”, văn hào Kazantzakis dường như muốn đặt
cuộc sống lên trên lý thuyết, và chứng tá lên trên lời rao giảng. Trong một bài
ký sự, ông viết về các nhà thông thái người Đức rằng nếu cho họ chọn lựa giữa
hai cánh cửa, cánh cửa thứ nhứt có viết “Thiên Đàng” và cánh cửa thứ hai lại
ghi “Thuyết giảng về Thiên Đàng” thì họ chẳng ngần ngại chọn cánh cửa thứ hai.
Trong cuốn sách viết
về thánh Phanxicô, Kazantzakis tưởng tượng ra cảnh thánh nhân giận dữ giựt lấy
một cuốn sách mà một tu sĩ trẻ đang đọc và ném vào lửa, rồi giải thích với vị
tu sĩ này rằng ngày Lễ Phục Sinh duy nhứt mà cộng đồng của ngài không nhìn thấy
sự Phục Sinh đó là lần có một nhà thần học uyên bác từ Đại học Bologna đến thuyết
giảng.
Cũng vị tu sĩ trẻ
này được phép giảng, nhưng với điều kiện như sau: “Thày phải lên bục giảng và bắt
đầu kêu “be be” như một con cừu. Chỉ có tiếng kêu đó thôi, chứ không có gì
khác”.
Lần kia, một thày
tên là Leo được chỉ định lên bục giảng để giải thích về Lề Luật do thánh
Phanxicô đề ra. Vị tu sĩ này chỉ ấp úng nói được vài lời, rồi bật khóc. Nhưng
thánh Phanxicô đưa ra nhận xét: “Không ai đã nói với tất cả sự khôn khéo và mãnh
liệt như thế”.
Với một cuộc sống
đơn sơ và khó nghèo lúc còn làm việc tại Buenos Aires và với những cử chỉ giáo
đầu cũng đơn giản tối đa khi khởi đầu cuộc sống tại Roma, tôi tin chắc rằng đức
thánh cha Phanxicô cũng sẽ tiếp tục xem cuộc sống chứng tá quan trọng hơn chính
lời rao giảng hùng hồn mà ngài thừa có.
Tôi vốn sợ đọc các
thông điệp khô khan và tràng giang đại hải của các đức giáo hoàng. Tôi cũng sợ
rằng phần lớn các linh mục cũng chẳng có thời giờ và can đảm để đọc hết những
thông điệp ấy. Tôi cũng phải thú nhận là tôi chẳng có đủ khả năng để lắng nghe
cho trọn các bài giảng cao siêu của các vị giáo hoàng. Nhưng một nụ cười, một cử
chỉ thân ái của các ngài thì tôi chẳng bao giờ quên.
Thánh Phanxicô
Assisi không phải là một nhà tư tưởng uyên bác và thâm sâu. Ngài chỉ là một con
người sống đơn sơ và khó nghèo cho đến cùng. Vậy mà Giáo hội và ngay cả xã hội
vào thời đại ngài đã được cải tổ rất nhiều nhờ chính gương sáng của ngài. Gương
của vị thánh mà ngày nay thế giới nhìn nhận như “sứ giả hòa bình” có sức thu
hút và thuyết phục đến nỗi Lenin, cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản, đã phải nhìn
nhận rằng chỉ cần 10 người như thánh nhân cũng đủ để cải tạo thế giới đầy bất
công. Rất tiếc là Lenin đã không đi theo con đường “cách mạng” của thánh
Phanxicô. Ông đã chọn con đường bạo động.
Kinh nghiệm xây dựng
thiên đàng xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô, Đông Âu và ngày nay tại Trung Cộng, Việt
Nam, Bắc Hàn, Cuba cho thấy chỉ có cuộc cách mạng bằng cuộc sống chứng nhân như
thánh Phanxicô đã đề ra vẫn mãi mãi còn giá trị.
Tương lai ra sao
thì không ai có thể đoán được nhưng ít ra trong mấy ngày vừa rồi, nhiều tinh thần
của thánh Phaxicô Assisi sống lại qua những cử chỉ bình thường của Đức tân giáo
hoàng người Á Căn Đình chắc hẳn làm cho nhiều người, trong đó có tôi, phải xét lại cách sống của
mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét