Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016

Tôi là ai mà kết án họ!


Chu Thập
17.6.16

Giáo sĩ Hồi giáo người Anh Farrokh Sekaleshfar đã phải  rời khỏi Úc Đại Lợi, vì như Thủ tướng Malcolm Turnbull đã nói “đất nước này tuyệt đối không dung thứ cho những người đến Úc để rao giảng sự thù hận”. Thủ tướng Úc đã dựa vào điều 501 của Luật Di Trú để rút lại chiếu khán nhập cảnh dành cho vị giáo sĩ Hồi giáo này. Ông Sekaleshfar đã được một đền thờ Hồi giáo ở miền Tây Sydney mời đến thuyết giảng trong tháng chay Ramadan của người Hồi giáo.
Giáo sĩ Sekaleshfar đã nổi tiếng sau vụ thảm sát tại một hộp đêm của người đồng tính tại Thành phố Orlando, Tiểu bang Florida, Hoa Kỳ, bởi vì trong một bài thuyết giảng trước đó ông đã tuyên bố rằng cần phải tuyên án tử hình cho những người đồng tính. Theo ông, đây là một bản án “đầy cảm thông”. Khi đưa ra lời thuyết giảng trên đây, giáo sĩ Sekaleshfar nói rằng tuyên án tử hình cho người đồng tính là điều hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Kinh Coran.
Không rõ hung thủ Omar  Mateen, người mà nhiều nhân chứng cho biết đã thường xuyên tìm đến hộp đêm Pulse của người đồng tính, có nhận được cảm hứng từ những lời rao giảng của giáo sĩ Sekaleshfar không. Ông Seddique Mateen, cha của hung thủ, khẳng định rằng con ông không phải là một người đồng tính. Theo ông, sở dĩ Omar Mateen đã có hành động khủng bố với người đồng tính như thế là vì trước đó hai tuần anh đã chứng kiến cảnh hai người đàn ông hôn nhau.
Đây là một chi tiết khiến tôi cũng phải nhìn lại tiến trình chuyển hóa trong cái nhìn của tôi về người đồng tính. Trong giáo dục gia đình và đạo giáo mà tôi đã thụ hưởng được ngay từ thuở nhỏ, hôn hít giữa hai người khác phái, dù là vợ chồng đi nữa, nếu diễn ra giữa thanh thiên bạch nhựt, là một điều cấm kỵ. Tôi chưa từng thấy cha mẹ hay các anh chị của tôi làm điều đó giữa ban ngày bao giờ. Thập niên 1950, tôi làm quen với nghệ thuật thứ bảy qua các phim ảnh của Ấn Độ và Phi Luật Tân. Phim Ấn Độ nào cũng toàn là ca vũ. Mà ca vũ lại rất “lành mạnh”. Cứ xáp lại gần nhau đến hồi “gay cấn” nhứt thì cô cậu lại buông tay chạy ra xa. Cứ như mèo vờn chuột. Còn trong các phim Phi Luật Tân, hình như quỷ nhập tràng “quậy” quá, cho nên những người hùng chẳng bao giờ dám hó hé để hôn hít lăng nhăng cả. Mãi gần cuối thập niên 1950, tôi mới bắt đầu thấy cảnh hôn hít trong các phim “cao bồi” viễn Tây của Mỹ. Nhưng do giáo dục gia đình và đạo giáo kìm hãm, cộng với sự trong trắng của tuổi thơ, cứ mỗi lần thấy cảnh hôn hít là tôi nhắm mắt lại. Đến tuổi dậy thì, khi tâm hồn và thể xác của tôi  đã có chút rạo rực và rung cảm  mỗi lần được xem những cuốn phim có vài cảnh gây cấn, người chiếu phim thường phải lấy tay để che những cảnh ấy lại. Tôi cứ thắc mắc: hôn hít công khai là điều xấu xa hay tôi còn quá non dại để được phép nhìn xem cảnh ấy!
Cứ thế, bên cạnh “giáo điều” nam nữ thọ thọ bất thân là vô số những cấm kỵ liên quan đến tính dục khiến tôi cứ bị đè nặng bởi mặc cảm mỗi khi nghĩ đến tính dục. Mãi cho đến năm 1982, khi đặt chân đến Pháp, không những được giải phóng khỏi chế độ độc tài cộng sản, tôi cũng cảm thấy được giải thoát khỏi nhiều thứ cấm kỵ liên quan đến tính dục. Thật vậy, ở cái đất nước mà cứ hễ có một tấm bảng có ghi chữ “cấm” như cấm xả rác, cấm đái bậy chẳng hạn, người ta lại thêm vào một chữ “cấm” nữa để bảo “không được phép cấm”. Thành ra, có những điều được xem là cấm kỵ ở Việt Nam thì ở đây người ta “xả láng”. Cụ thể nhứt là chuyện hôn hít. Ngày đầu tiên sử dụng xe lửa ngầm Metro để đi thám thính “kinh thành ánh sáng” Paris, tôi không cảm thấy bị choáng ngợp vì cảnh xe cộ tấp nập hay các cao ốc, mà vì những cảnh hôn hít diễn ra hầu như ở bất cứ một nơi công cộng nào. Ở đâu dân Pháp cũng hôn hít. Còn ra đến bãi biển hay vào các hồ tắm công cộng, những người tỵ nạn như tôi tha hồ “rửa mắt”: rất nhiều thiếu nữ và “bà đầm” chỉ mặc độc một mảnh! Không những tôi “rửa mắt” mà cũng được “rửa tội” lại để tập làm quen với những hình ảnh mà trước kia tôi được dạy bảo là điều cấm kỵ. Nhưng trong cố gắng vượt qua những điều cấm kỵ, điều quan trọng hơn cả là lần đầu tiên trong đời tôi được tiếp xúc với xã hội đồng tính và có được một ý niệm rõ rệt về thế giới này. Tôi xem đó như một tiến bộ trong tiến trình hội nhập vào xã hội Tây Phương. Ngày nay, tôi xem việc tiếp xúc và làm quen với người đồng tính là một điều bắt buộc phải có trong đời sống xã hội. Trước kia, tôi không hề có bất cứ khái niệm nào về đồng tính. Bây giờ, xung quanh tôi nhan nhản người đồng tính.
Trước đây tôi có thái độ không những đố kỵ, ngờ vực, khinh rẻ đối với người đồng tính. Ngày nay, tôi mới hiểu thế nào là sự cảm thông mà mình phải có đối với họ. Mới đây, một ông bạn của tôi từ Mỹ đến thăm. Hiện ông là một luật sư đang hành nghề. Với cách nói chuyện mà tôi nghĩ chỉ có giới luật sư mới có, lúc nào ông cũng đóng vai “  luật sư của quỷ” (Devil’s advocate). Nói đi rồi lúc nào ông cũng nói lại. Kết thúc câu chuyện hay nhận định về bất cứ một người nào, ông cũng đều kết luận: họ cũng là con người!
“Họ cũng là con người” có nghĩa trước tiên là họ không chọn lựa để sinh ra. Họ cũng chẳng chọn cha mẹ để vào đời. Họ cũng chẳng chọn phái tính để có mặt trên trái đất này. Chẳng có ai tự mình quyết định về định hướng tính dục của mình. Nó như vậy thì phải chấp nhận thôi. Tôi hiểu được nỗi đau khổ của những bậc cha mẹ, nhứt là cha mẹ Việt Nam, khi sinh ra một đứa con đồng tính. Tôi lại càng hiểu được những dằn vặt của không biết bao nhiêu người phải vật lộn khi bị khủng hoảng về căn tính giới tính của mình. Thành ra, sự hiện diện và xuất hiện công khai của người đồng tính và xã hội đồng tính trong thế giới Tây Phương ngày nay là một thách đố trong tiến trình “làm người” của chính tôi. Tôi có thật sự là người, nghĩa là biết sống tử tế hay không là tùy cách tôi có chấp nhận và tỏ ra cảm thông với những người đồng tính không. Là một tín hữu Kitô, tôi xem cách xử sự của Đức Phanxicô về vấn đề này là mẫu mực. Trong một cuộc họp báo năm 2013, khi được hỏi về quan điểm của ngài đối với người đồng tính, ngài trả lời “Tôi là ai để đoán xét họ?” (Who am I to judge them?”) hàm ý: họ cũng là con người có tất cả phẩm giá cao trọng như tôi, tôi lấy tư cách nào để kết án họ.
Tôi cảm thấy phấn khởi trước phản ứng của Thủ tướng Turnbull và dân Úc về những lời kêu gọi thù hận của giáo sĩ Hồi giáo Sekaleshfar: Úc Đại Lợi mà tôi đã chọn làm quê hương thứ hai là một đất nước của khoan nhượng trong đó sự thù hận đối với người đồng tính hay bất cứ thành phần xã hội nào dựa trên văn hóa, chủng tộc và nhứt là tôn giáo sẽ không bao giờ có chỗ đứng!
Tôi xác tín rằng chỉ có sự khoan nhượng mới có thể làm cho xã hội được hài hòa và con người mới cảm thấy hạnh phúc thực sự.
Hạnh phúc quả là điều mơ hồ. Nhưng điều cụ thể trước mắt mà con người có thể cảm nhận được là mối quan hệ xã hội của họ. Ai cũng muốn được người khác tôn trọng và quý mến. Ai cũng muốn có bạn. Ai cũng muốn sống hài hòa với người khác.
Cách đây vài năm, chuyên gia tâm lý Steven C. Hayes Ph.D có thực hiện một cuộc nghiên cứu qua đó ông nhận thấy rằng con người chỉ có thể sống hài hòa với người khác và cảm thấy hạnh phúc với hai điều kiện. Trước hết, chúng ta cần phải “xỏ chân vào giày của người khác”, nghĩa là phải nhìn thế giới xuyên qua chính con mắt của người đó. Kế đó, chúng ta cần phải biết chia vui sẻ buồn với người khác. Nói cách khác, chúng ta chỉ có thể vui hưởng sự hiện diện của người khác và yêu thương họ nếu chúng ta biết cảm thông với họ. Trong hầu hết các ngôn ngữ Tây Phương, hai chữ “cảm thông” luôn gợi lên sự “cùng chịu đựng, cùng đau khổ” với người khác (x. Psychology Today, 13/6/2013).
Theo các chuyên gia tâm lý, nếu chúng ta không chấp nhận “cùng chịu đựng, cùng đau khổ” với người khác, nếu chúng ta không chấp nhận cái nhìn của họ, nếu chúng ta không cảm thông hay hiểu được những cảm xúc của người khác, chúng ta dễ có khuynh hướng kết án và thù hận họ.
Nếu đúng như giải thích của ông Seddique Mateen, cha của hung thần đã gây ra cuộc thảm sát làm cho 49 người chết và trên 50 người bị thương, thì chính vì không chấp nhận cảnh hai người đàn ông hôn hít nhau mà anh đã có hành động dã man như thế. Với anh, người đồng tính không phải là những con người cần được tôn trọng và cảm thông, bởi vì họ cũng là người như anh, mà chỉ là những đối tượng của hận thù cần phải, theo lời dạy của giáo sĩ Sekaleshfar, “tuyên án tử hình” và xử tử.
Ngày nay, sau bất cứ một cuộc thảm sát nào, thế giới cũng đều có một phản ứng như nhau: đó là chia sẻ nỗi đau của gia đình các nạn nhân và lên án sự thù hận. Những bó hoa được đặt tại những nơi xảy ra các cuộc thảm sát, những đêm thắp nến để cầu nguyện, để bày tỏ sự thương tiếc và để tỏ tình liên đới...cũng nói lên quyết tâm của nhân loại trong cuộc chiến chống lại thù hận. Có những người như hai ứng cử viên tổng thống Mỹ Hillary Clinton và Donald Trump đã nhấn mạnh đến quyết tâm phải chống lại các tổ chức khủng bố, đặc biệt là “khủng bố Hồi giáo” ISIS hoặc hạn chế hay phải rất nghiêm nhặt trong việc cho người Hồi giáo nhập cư vào Hoa Kỳ. Có lẽ ai cũng nghĩ đến cuộc chiến chống lại khủng bố. Cần phải đứng lên và chiến đấu chống lại khủng bố. Nhưng thật ra, nếu có một cuộc chiến thật sự thì  cuộc chiến đó cần phải khởi sự ngay từ bên trong mỗi người. Đây là cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa hận thù và tình yêu. Đã là người, không ai thoát khỏi một cuộc chiến như thế.
Nói đến cuộc chiến giữa hận thù và tình yêu, tôi liên tưởng đến hai nhân vật thường được nhắc đến ở Việt Nam trong những ngày vừa qua: một là ông Bob Kerry, người vừa được chính phủ Hoa Kỳ đề cử giữ chức chủ tịch của Hội đồng Tín Thác (Board of Trustee) của trường đại học Fullbright vừa được cấp giấy phép thành lập tại Việt Nam, hai là bà Tôn Nữ Thị Ninh, một nhà trí thức cộng sản nổi tiếng của Việt Nam. Bà Ninh đã lên tiếng kịch liệt phản đối việc bổ nhiệm ông Kerry vào một chức vụ quan trọng trong đại học Fullbright chỉ vì năm 1969, ông đã chỉ huy một toán quân Mỹ đột nhập vào làng Thanh Phong, quân Thanh Phú, tỉnh Bến Tre, vốn là một địa điểm được đánh giá là vùng khai hỏa tự do. Khi tiến vào làng, toán đặc nhiệm của ông Kerry đã bị du kích núp trong nhà dân bắn ra nên họ đã khai hỏa xối xả vào làng. Sau khi ngưng tiếng súng, lục soát khắp làng, ông Kerry và toán quân của ông chỉ thấy khoảng 14 xác chết của những thiếu niên trẻ chừng 18 tuổi và phụ nữ nằm rải rác trong làng...Sau chiến tranh, ông Kerry đã bày tỏ sự ân hận; lương tâm ông luôn bị dằn vặt vì cảnh chết chóc do mình gây ra. Từ đó ông đã nỗ lực tối đa trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh bằng những hành động thúc đẩy, xây dựng quan hệ ngoại giao Mỹ Việt, xóa bỏ lệnh cấm vận. Nơi ông, chắc chắn đã diễn ra một cuộc chiến dai dẳng giữa hận thù và tình thương. Nhưng nơi ông, cuối cùng  tình thương đã chiến thắng trên hận thù.
Chiến tranh đã kết thúc. Nhưng tôi nghĩ, trong lòng bà Tô Nữ Thị Ninh và rất nhiều người cộng sản Việt Nam khác, có lẽ chiến tranh vẫn còn tiếp diễn và hận thù vẫn đang thắng thế. Đó là điều đáng buồn cho đất nước và dân tộc Việt Nam!





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét