Chu Thập
17.6.16
Giáo sĩ Hồi
giáo người Anh Farrokh Sekaleshfar đã phải
rời khỏi Úc Đại Lợi, vì như Thủ tướng Malcolm Turnbull đã nói “đất nước này tuyệt đối không dung thứ cho những
người đến Úc để rao giảng sự thù hận”. Thủ tướng Úc đã dựa vào điều 501 của
Luật Di Trú để rút lại chiếu khán nhập cảnh dành cho vị giáo sĩ Hồi giáo này.
Ông Sekaleshfar đã được một đền thờ Hồi giáo ở miền Tây Sydney mời đến thuyết
giảng trong tháng chay Ramadan của người Hồi giáo.
Giáo sĩ
Sekaleshfar đã nổi tiếng sau vụ thảm sát tại một hộp đêm của người đồng tính tại
Thành phố Orlando, Tiểu bang Florida, Hoa Kỳ, bởi vì trong một bài thuyết giảng
trước đó ông đã tuyên bố rằng cần phải tuyên án tử hình cho những người đồng
tính. Theo ông, đây là một bản án “đầy cảm thông”. Khi đưa ra lời thuyết giảng
trên đây, giáo sĩ Sekaleshfar nói rằng tuyên án tử hình cho người đồng tính là
điều hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Kinh Coran.
Không rõ
hung thủ Omar Mateen, người mà nhiều
nhân chứng cho biết đã thường xuyên tìm đến hộp đêm Pulse của người đồng tính,
có nhận được cảm hứng từ những lời rao giảng của giáo sĩ Sekaleshfar không. Ông
Seddique Mateen, cha của hung thủ, khẳng định rằng con ông không phải là một
người đồng tính. Theo ông, sở dĩ Omar Mateen đã có hành động khủng bố với người
đồng tính như thế là vì trước đó hai tuần anh đã chứng kiến cảnh hai người đàn
ông hôn nhau.
Đây là một
chi tiết khiến tôi cũng phải nhìn lại tiến trình chuyển hóa trong cái nhìn của
tôi về người đồng tính. Trong giáo dục gia đình và đạo giáo mà tôi đã thụ hưởng
được ngay từ thuở nhỏ, hôn hít giữa hai người khác phái, dù là vợ chồng đi nữa,
nếu diễn ra giữa thanh thiên bạch nhựt, là một điều cấm kỵ. Tôi chưa từng thấy
cha mẹ hay các anh chị của tôi làm điều đó giữa ban ngày bao giờ. Thập niên
1950, tôi làm quen với nghệ thuật thứ bảy qua các phim ảnh của Ấn Độ và Phi Luật
Tân. Phim Ấn Độ nào cũng toàn là ca vũ. Mà ca vũ lại rất “lành mạnh”. Cứ xáp lại
gần nhau đến hồi “gay cấn” nhứt thì cô cậu lại buông tay chạy ra xa. Cứ như mèo
vờn chuột. Còn trong các phim Phi Luật Tân, hình như quỷ nhập tràng “quậy” quá,
cho nên những người hùng chẳng bao giờ dám hó hé để hôn hít lăng nhăng cả. Mãi
gần cuối thập niên 1950, tôi mới bắt đầu thấy cảnh hôn hít trong các phim “cao
bồi” viễn Tây của Mỹ. Nhưng do giáo dục gia đình và đạo giáo kìm hãm, cộng với
sự trong trắng của tuổi thơ, cứ mỗi lần thấy cảnh hôn hít là tôi nhắm mắt lại.
Đến tuổi dậy thì, khi tâm hồn và thể xác của tôi đã có chút rạo rực và rung cảm mỗi lần được xem những cuốn phim có vài cảnh
gây cấn, người chiếu phim thường phải lấy tay để che những cảnh ấy lại. Tôi cứ
thắc mắc: hôn hít công khai là điều xấu xa hay tôi còn quá non dại để được phép
nhìn xem cảnh ấy!
Cứ thế, bên
cạnh “giáo điều” nam nữ thọ thọ bất thân là vô số những cấm kỵ liên quan đến
tính dục khiến tôi cứ bị đè nặng bởi mặc cảm mỗi khi nghĩ đến tính dục. Mãi cho
đến năm 1982, khi đặt chân đến Pháp, không những được giải phóng khỏi chế độ độc
tài cộng sản, tôi cũng cảm thấy được giải thoát khỏi nhiều thứ cấm kỵ liên quan
đến tính dục. Thật vậy, ở cái đất nước mà cứ hễ có một tấm bảng có ghi chữ “cấm”
như cấm xả rác, cấm đái bậy chẳng hạn, người ta lại thêm vào một chữ “cấm” nữa
để bảo “không được phép cấm”. Thành ra, có những điều được xem là cấm kỵ ở Việt
Nam thì ở đây người ta “xả láng”. Cụ thể nhứt là chuyện hôn hít. Ngày đầu tiên
sử dụng xe lửa ngầm Metro để đi thám thính “kinh thành ánh sáng” Paris, tôi
không cảm thấy bị choáng ngợp vì cảnh xe cộ tấp nập hay các cao ốc, mà vì những
cảnh hôn hít diễn ra hầu như ở bất cứ một nơi công cộng nào. Ở đâu dân Pháp
cũng hôn hít. Còn ra đến bãi biển hay vào các hồ tắm công cộng, những người tỵ
nạn như tôi tha hồ “rửa mắt”: rất nhiều thiếu nữ và “bà đầm” chỉ mặc độc một mảnh!
Không những tôi “rửa mắt” mà cũng được “rửa tội” lại để tập làm quen với những
hình ảnh mà trước kia tôi được dạy bảo là điều cấm kỵ. Nhưng trong cố gắng vượt
qua những điều cấm kỵ, điều quan trọng hơn cả là lần đầu tiên trong đời tôi được
tiếp xúc với xã hội đồng tính và có được một ý niệm rõ rệt về thế giới này. Tôi
xem đó như một tiến bộ trong tiến trình hội nhập vào xã hội Tây Phương. Ngày
nay, tôi xem việc tiếp xúc và làm quen với người đồng tính là một điều bắt buộc
phải có trong đời sống xã hội. Trước kia, tôi không hề có bất cứ khái niệm nào
về đồng tính. Bây giờ, xung quanh tôi nhan nhản người đồng tính.
Trước đây
tôi có thái độ không những đố kỵ, ngờ vực, khinh rẻ đối với người đồng tính.
Ngày nay, tôi mới hiểu thế nào là sự cảm thông mà mình phải có đối với họ. Mới
đây, một ông bạn của tôi từ Mỹ đến thăm. Hiện ông là một luật sư đang hành nghề.
Với cách nói chuyện mà tôi nghĩ chỉ có giới luật sư mới có, lúc nào ông cũng
đóng vai “ luật sư của quỷ” (Devil’s
advocate). Nói đi rồi lúc nào ông cũng nói lại. Kết thúc câu chuyện hay nhận định
về bất cứ một người nào, ông cũng đều kết luận: họ cũng là con người!
“Họ cũng là
con người” có nghĩa trước tiên là họ không chọn lựa để sinh ra. Họ cũng chẳng
chọn cha mẹ để vào đời. Họ cũng chẳng chọn phái tính để có mặt trên trái đất
này. Chẳng có ai tự mình quyết định về định hướng tính dục của mình. Nó như vậy
thì phải chấp nhận thôi. Tôi hiểu được nỗi đau khổ của những bậc cha mẹ, nhứt
là cha mẹ Việt Nam, khi sinh ra một đứa con đồng tính. Tôi lại càng hiểu được
những dằn vặt của không biết bao nhiêu người phải vật lộn khi bị khủng hoảng về
căn tính giới tính của mình. Thành ra, sự hiện diện và xuất hiện công khai của
người đồng tính và xã hội đồng tính trong thế giới Tây Phương ngày nay là một
thách đố trong tiến trình “làm người” của chính tôi. Tôi có thật sự là người,
nghĩa là biết sống tử tế hay không là tùy cách tôi có chấp nhận và tỏ ra cảm
thông với những người đồng tính không. Là một tín hữu Kitô, tôi xem cách xử sự
của Đức Phanxicô về vấn đề này là mẫu mực. Trong một cuộc họp báo năm 2013, khi
được hỏi về quan điểm của ngài đối với người đồng tính, ngài trả lời “Tôi là ai
để đoán xét họ?” (Who am I to judge them?”) hàm ý: họ cũng là con người có tất
cả phẩm giá cao trọng như tôi, tôi lấy tư cách nào để kết án họ.
Tôi cảm thấy
phấn khởi trước phản ứng của Thủ tướng Turnbull và dân Úc về những lời kêu gọi
thù hận của giáo sĩ Hồi giáo Sekaleshfar: Úc Đại Lợi mà tôi đã chọn làm quê
hương thứ hai là một đất nước của khoan nhượng trong đó sự thù hận đối với người
đồng tính hay bất cứ thành phần xã hội nào dựa trên văn hóa, chủng tộc và nhứt
là tôn giáo sẽ không bao giờ có chỗ đứng!
Tôi xác tín
rằng chỉ có sự khoan nhượng mới có thể làm cho xã hội được hài hòa và con người
mới cảm thấy hạnh phúc thực sự.
Hạnh phúc quả
là điều mơ hồ. Nhưng điều cụ thể trước mắt mà con người có thể cảm nhận được là
mối quan hệ xã hội của họ. Ai cũng muốn được người khác tôn trọng và quý mến.
Ai cũng muốn có bạn. Ai cũng muốn sống hài hòa với người khác.
Cách đây vài
năm, chuyên gia tâm lý Steven C. Hayes Ph.D có thực hiện một cuộc nghiên cứu
qua đó ông nhận thấy rằng con người chỉ có thể sống hài hòa với người khác và cảm
thấy hạnh phúc với hai điều kiện. Trước hết, chúng ta cần phải “xỏ chân vào
giày của người khác”, nghĩa là phải nhìn thế giới xuyên qua chính con mắt của
người đó. Kế đó, chúng ta cần phải biết chia vui sẻ buồn với người khác. Nói
cách khác, chúng ta chỉ có thể vui hưởng sự hiện diện của người khác và yêu
thương họ nếu chúng ta biết cảm thông với họ. Trong hầu hết các ngôn ngữ Tây
Phương, hai chữ “cảm thông” luôn gợi lên sự “cùng chịu đựng, cùng đau khổ” với
người khác (x. Psychology Today, 13/6/2013).
Theo các
chuyên gia tâm lý, nếu chúng ta không chấp nhận “cùng chịu đựng, cùng đau khổ”
với người khác, nếu chúng ta không chấp nhận cái nhìn của họ, nếu chúng ta
không cảm thông hay hiểu được những cảm xúc của người khác, chúng ta dễ có
khuynh hướng kết án và thù hận họ.
Nếu đúng như
giải thích của ông Seddique Mateen, cha của hung thần đã gây ra cuộc thảm sát
làm cho 49 người chết và trên 50 người bị thương, thì chính vì không chấp nhận
cảnh hai người đàn ông hôn hít nhau mà anh đã có hành động dã man như thế. Với
anh, người đồng tính không phải là những con người cần được tôn trọng và cảm
thông, bởi vì họ cũng là người như anh, mà chỉ là những đối tượng của hận thù cần
phải, theo lời dạy của giáo sĩ Sekaleshfar, “tuyên án tử hình” và xử tử.
Ngày nay,
sau bất cứ một cuộc thảm sát nào, thế giới cũng đều có một phản ứng như nhau:
đó là chia sẻ nỗi đau của gia đình các nạn nhân và lên án sự thù hận. Những bó
hoa được đặt tại những nơi xảy ra các cuộc thảm sát, những đêm thắp nến để cầu
nguyện, để bày tỏ sự thương tiếc và để tỏ tình liên đới...cũng nói lên quyết
tâm của nhân loại trong cuộc chiến chống lại thù hận. Có những người như hai ứng
cử viên tổng thống Mỹ Hillary Clinton và Donald Trump đã nhấn mạnh đến quyết
tâm phải chống lại các tổ chức khủng bố, đặc biệt là “khủng bố Hồi giáo” ISIS
hoặc hạn chế hay phải rất nghiêm nhặt trong việc cho người Hồi giáo nhập cư vào
Hoa Kỳ. Có lẽ ai cũng nghĩ đến cuộc chiến chống lại khủng bố. Cần phải đứng lên
và chiến đấu chống lại khủng bố. Nhưng thật ra, nếu có một cuộc chiến thật sự
thì cuộc chiến đó cần phải khởi sự ngay
từ bên trong mỗi người. Đây là cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa hận thù và
tình yêu. Đã là người, không ai thoát khỏi một cuộc chiến như thế.
Nói đến cuộc
chiến giữa hận thù và tình yêu, tôi liên tưởng đến hai nhân vật thường được nhắc
đến ở Việt Nam trong những ngày vừa qua: một là ông Bob Kerry, người vừa được
chính phủ Hoa Kỳ đề cử giữ chức chủ tịch của Hội đồng Tín Thác (Board of
Trustee) của trường đại học Fullbright vừa được cấp giấy phép thành lập tại Việt
Nam, hai là bà Tôn Nữ Thị Ninh, một nhà trí thức cộng sản nổi tiếng của Việt
Nam. Bà Ninh đã lên tiếng kịch liệt phản đối việc bổ nhiệm ông Kerry vào một chức
vụ quan trọng trong đại học Fullbright chỉ vì năm 1969, ông đã chỉ huy một toán
quân Mỹ đột nhập vào làng Thanh Phong, quân Thanh Phú, tỉnh Bến Tre, vốn là một
địa điểm được đánh giá là vùng khai hỏa tự do. Khi tiến vào làng, toán đặc nhiệm
của ông Kerry đã bị du kích núp trong nhà dân bắn ra nên họ đã khai hỏa xối xả
vào làng. Sau khi ngưng tiếng súng, lục soát khắp làng, ông Kerry và toán quân
của ông chỉ thấy khoảng 14 xác chết của những thiếu niên trẻ chừng 18 tuổi và
phụ nữ nằm rải rác trong làng...Sau chiến tranh, ông Kerry đã bày tỏ sự ân hận;
lương tâm ông luôn bị dằn vặt vì cảnh chết chóc do mình gây ra. Từ đó ông đã nỗ
lực tối đa trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh bằng những hành động thúc
đẩy, xây dựng quan hệ ngoại giao Mỹ Việt, xóa bỏ lệnh cấm vận. Nơi ông, chắc chắn
đã diễn ra một cuộc chiến dai dẳng giữa hận thù và tình thương. Nhưng nơi ông,
cuối cùng tình thương đã chiến thắng
trên hận thù.
Chiến tranh
đã kết thúc. Nhưng tôi nghĩ, trong lòng bà Tô Nữ Thị Ninh và rất nhiều người cộng
sản Việt Nam khác, có lẽ chiến tranh vẫn còn tiếp diễn và hận thù vẫn đang thắng
thế. Đó là điều đáng buồn cho đất nước và dân tộc Việt Nam!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét