Thứ Tư, 15 tháng 6, 2016

Đồng Đạo






Chu Thập
18.9.12

Tôi sinh ra và lớn lên trong một ngôi làng, xét về mặt tôn giáo, rất đặc biệt. Làng tôi được chia thành ba “xóm”. Dọc theo tỉnh lộ là “xóm đạo”, tức “đặc khu” của người Công giáo. “Xóm đồng”, tức gần đồng ruộng, gồm toàn những người mà người Công giáo chúng tôi gọi là “người bên lương”, người “ngoại đạo”. Nhưng khu mà chúng tôi gọi là “xóm dưới” lại  là nơi sống chung hòa bình giữa “lương giáo”.
Tôi chưa từng nghe nói đến lịch sử của ngôi làng của tôi. Không biết “lương” hay “giáo”, ai là cư dân đầu tiên của ngôi làng ở miền trung Trung Việt này. Chỉ có một điều chắc chắn là “xóm giáo” của tôi có lẽ đã hiện diện trong ngôi làng này ít nhứt cũng đã trên 200 năm. Thật ra cho tới nay, chẳng có người dân làng nào mất giờ để điều tra hay tranh cãi về chỗ đứng “lịch sử” của mình trong làng cả. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, đều sống chung hòa bình với nhau có lẽ theo cái truyền thống “tam giáo đề huề” vốn đã có từ  xa xưa. Vả lại, dù có khác tôn giáo, giây mơ rễ má giữa “lương giáo” lại chằng chịt với nhau. Chính vì “chín đời không nhìn trời đánh” mà tôi có rất nhiều chú, bác, cô, dì, cậu...là người “bên lương”. Ra đường chào mệt nghỉ thôi. Không gặp nhau trong nhà thờ thì cũng giáp mặt nhau ngoài bờ ruộng, bên sông nước.
Có lẽ để “giữ đức tin” chăng, người Công giáo luôn tỏ ra khắng khít với nhau hơn. Chuyện cưới hỏi rất khắt khe. Có lỡ thương ai khác đạo thì cũng đành ca bài “tình chỉ đẹp khi còn dang dở” thôi. Còn muốn làm dâu làm rể trong xóm đạo của tôi thì đành phải bỏ đạo của mình để mà “trở lại đạo” của chúng tôi. Chuyện giáo dục con em thì lại càng khó khăn hơn: phụ huynh Công giáo “buộc” phải cho con em theo học trong trường của giáo xứ do các nữ tu điều khiển. Ngoài các môn học chính trong trường, mỗi ngày thứ Năm, tức ngày nghỉ,  trẻ con Công giáo còn phải theo học một giờ giáo lý mà ngày xưa chúng tôi gọi là “chín thiên mười giái”, tức 9 bài học về các tín điều phải tin và 10 giới răn phải tuân giữ. Không rõ do xích mích như thế nào đó với ông cha sở mà cha tôi đã “nổi loạn” bằng cách lôi cổ ông anh kề của tôi ra khỏi trường giáo xứ và gởi xuống học ở “trường tỉnh”, tức trường công.
Nhưng dù theo bậc tiểu học ở đâu, lên đến bậc trung học, học sinh “lương giáo” chúng tôi đều trở thành bạn học của nhau cả. Biên giới của tôn giáo lại càng được vượt qua hơn khi chúng tôi ra sân cỏ, bởi vì ở đây không có màu cờ hay sắc áo của tôn giáo, mà chỉ có một đội banh duy nhứt là đội banh của làng mà thôi. Hễ gặp nhau là vui vẻ cả làng, bất luận theo tôn giáo nào.
Tôi giới thiệu vài nét về ngôi làng của tôi như thế là để khẳng định một điều: rõ ràng là các tín đồ của các tôn giáo khác nhau vẫn có thể sống chung hòa bình với nhau. Điều này đã từng có trong ngôi làng nhỏ bé của tôi và trên toàn cõi Việt nam. Điều này cũng đã từng xảy ra ở khởi đầu lịch sử của Kitô giáo tại Trung đông. Điển hình nhứt phải kể đến trường hợp Liban: tại đây các tín hữu Kitô và người Hồi giáo đã từng sống chung hòa bình với nhau trong hằng bao thế kỷ và ngày nay thực thi một hình thức dân chủ độc nhứt vô nhị: tổng thống nước này luôn là một tín hữu Kitô và thủ tướng là một người Hồi giáo. Cuộc sống chung hòa bình và chia sẻ quyền lực một cách hài hòa như thế đã có một thời làm cho Liban trở thành một quốc gia thịnh vượng được mệnh danh là Thụy sĩ của Trung đông.
Quyền lực và tham vọng dễ gây chia rẽ. Và tôn giáo là con mồi dễ bị quyền lực và tham vọng nuốt trửng nhứt. Lịch sử của Kitô giáo có thể là một điển hình. Khi mới được khai sinh, Kitô giáo, như Chúa Giêsu đã báo trước, chỉ là “một đàn chiên nhỏ bé” bị bách hại dã man. Nhưng vào thế kỷ thứ 4, khi hoàng đế  Constantino “trở lại” ki tô giáo, cả đế quốc La mã đã cùng với ông  đã  “được” hay bị “rửa tội” và Kitô giáo đã trở thành quốc giáo. Một khi quyền lực chính trị muốn thống trị tôn giáo thì đương nhiên đạo lý của tôn giáo cũng bị bóp méo, lèo lái cho đúng với tham vọng chính trị của người đang nắm quyền cai trị. Trong hàng bao thế kỷ, người ta vẫn mặc nhiên chấp nhận châm ngôn: vua theo đạo nào thì thần dân cũng phải theo đạo ấy (cujus regio, ejus religio). Đó là diền mối của bao nhiêu cuộc chiến tranh vì tôn giáo, từ các cuộc thập tự viễn chinh cho đến những cuộc chiến tranh giữa Tin lành và Công giáo ở Âu châu trước kia và ngay cả ngày nay vẫn còn âm ỉ tại Bắc Ái nhĩ lan.
Thật ra, có chiến tranh là chiến tranh giữa những người không cùng một tôn giáo mà thôi. Giữa các tôn giáo làm sao có chiến tranh được, bởi vì tôn giáo nào mà chẳng khuyên con người ăn ngay ở lành, sống hòa thuận, tránh chiến tranh và xây dựng hòa bình. Có Đấng Sáng Lập tôn giáo nào mà chẳng dạy con người sống yêu thương, nhẫn nhục, cảm thông và tha thứ?
Nhân danh tôn giáo để gây chiến tranh, bạo động hay khích động hận thù là chối bỏ sự chân chính của tôn giáo mình đang theo, là bôi nhọ và xúc phạm đến chính Đấng sáng lập tôn giáo. Những cuộc bạo động của những người Hồi giáo quá khích trên khắp thế giới trong những ngày vừa qua không chỉ tố cáo những kẻ xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của người khác khi bôi nhọ Đấng sáng lập tôn giáo của họ, mà cũng cho thấy rằng con người cũng có thể bôi bác hình ảnh của Đấng sáng lập tôn giáo khi xử dụng bạo động và hận thù để gọi là trừng phạt kẻ xúc phạm đến tôn giáo của mình.
Ở vào thời đại mà hai chữ khoan nhượng luôn được đề cao, tôi không thể hiểu được tại sao vẫn có những người ngang nhiên xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của người khác khi tìm cách báng bổ Đấng sáng lập tôn giáo của họ. Năm 1989, tác giả Salman Rushdie, người Anh gốc Ấn độ đã phải trốn chui trốn nhủi sau khi cho xuất bản cuốn sách có tựa đề “The Satanic Verses” (những vần thơ ác quỷ) có nội dung bôi bác, xúc phạm đến tiên tri Mahomet. Năm 2004, ông Theo Van Gogh, một nhà đạo diễn người Hòa lan đã bị giết chết  vì làm một cuốn phim để lên án sự đối xử tệ bạc của Hồi giáo đối với phụ nữ. Năm 2005, những bức hình hí họa bôi bác tiên tri Mahomet được đăng trên một tờ báo tại Đan Mạch cũng đã tạo nên một làn sóng phản đối bạo động tại nhiều nước. Khiêu khích nhứt có lẽ là hành động đốt Kinh Coran của mục sư Terry Jones tại tiểu bang Florida, Hoa kỳ.
Nhưng có lẽ chưa có hành động khiêu khích và xúc phạm nào kích động hận thù của những người Hồi giáo quá khích trên khắp thế giới cho bằng cuốn phim có tựa đề “The  Innocence of Muslims” (sự ngây ngô của người hồi giáo) được sản xuất tại Hoa kỳ mà cho tới nay người ta vẫn chưa biết ai là đạo diễn hay nhà sản xuất. Cuốn phim  không những gọi Hồi giáo là một “ung nhọt” của thế giới, mà còn vẽ ra một tiên tri Mahomet với những nét thô tục không thể chấp nhận được.
Xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của người khác là điều đáng lên án đã đành, nhưng xử dụng bạo lực và giết người, nhứt là những người vô tội như ông Chris Stevens, đại sứ Hoa kỳ tại Lybia và một số nhân viên sứ quán Mỹ tại đây, cũng là một hành động bôi bác tôn giáo và xúc phạm đến Đấng sáng lập tôn giáo của mình không kém.
Tôi tin chắc rằng nếu Tiên Tri Mahomet có trở lại trần gian thì chắc chắn ngài cũng chẳng “chấp nê” chuyện người ta bôi bác mình. Và dĩ nhiên, ngài cũng chẳng hề ban hành giáo lệnh “Fatwa” để truy lùng những kẻ “vô đạo” chối bỏ hay xúc phạm đến ngài.
Thế giới Tây phương luôn có một cái nhìn lệch lạc về tiên tri Mahomet. Tây phương có cả một lịch sử dài về thù nghịch đối với người Hồi giáo. Lịch sử ấy bắt nguồn từ thời Thập tự viễn chinh. Vào thế kỷ 12, các tu sĩ Kitô giáo tại Âu châu nhấn mạnh rằng Hồi giáo là một tôn giáo bạo động và Mahomet là người có chủ trương truyền đạo bằng gươm giáo. Chính cái nhìn lệch lạc ấy khiến cho Tây phương khó có thể có một cái nhìn khách quan về tiên tri Mahomet. Ngày nay, một số cơ quan truyền thông Tây phương vẫn còn giữ thái độ thù nghịch đối với vị tiên tri này. Có người cho rằng ngài là kẻ “nghiện ngập chiến tranh”. Có người còn đi xa hơn khi bảo ngài là một tên khủng bố và ấu dâm.
Trong cuốn sách có tựa đề “Mahomet: tiên tri cho thời đại chúng ta” (Muhammad: prophet for our time, NXB Harper Press, 2006), tác giả Karen Amstrong, người đã từng là một nữ tu Công giáo và hiện đang là một trong những nhà chuyên môn có thế giá về lịch sử các tôn giáo, viết rằng “cả cuộc đời của tiên tri Mahomet là một cuộc “thánh chiến” (Jihad). Theo tác giả, Jihad không hề có nghĩa là chiến tranh tôn giáo hay nhân danh tôn giáo, mà là một cuộc chiến đấu nội tâm để chống lại những khuynh hướng thấp hèn trong bản thân như lòng tham lam, tính kiêu ngạo. Nói tóm lại, tiên tri Mahomet không hề là một con người bạo động.
Giả như ngài có xuất hiện trong đám đông người Hồi giáo biểu tình phản đối trước tòa lãnh sự Mỹ tại Sydney hồi tuần qua, có lẽ ngài không những không cảm thấy hãnh diện chút nào, mà còn hãi hùng là khác khi nhìn thấy trong đám đông có một phụ nữ Hồi giáo dắt theo một đứa con nhỏ trên tay có cầm một tấm bảng với hàng chữ “Chặt đầu tất cả những ai lăng mạ Đấng Tiên Tri”. Ngài cũng sẽ khiếp sợ biết bao khi đến Pakistan để chứng kiến cảnh một giáo sĩ Hồi giáo dàn dựng chuyện đốt kinh Coran để có cớ bắt và kết án tử hình một em bé gái mắc bệnh Down. Nói gì đến Afghanistan. Liệu ngài có dám đến đó để gặp gỡ và khuyến dụ người Taliban từ bỏ bạo động không?
Không riêng Tiên Tri Mahomet mà bất cứ Đấng sáng lập tôn giáo nào cũng thế thôi. Các ngài chỉ mong có một thế giới hòa bình và khoan nhượng, trong đó, bất luận thuộc tôn giáo nào, mọi người đều có thể sống chung hòa bình với nhau, bởi vì cốt lõi của tôn giáo chính là tình thương, sự khoan nhượng, lòng cảm thông và tha thứ. Trái lại, yếu tính của vô đạo không phải là chối bỏ thế giới vô hình, mà là rao giảng và gieo rắc hận thù và bạo động.
Danlambao Blog, một trang mạng được nhiều người Việt nam trong nước theo dõi, trong một số ra dạo đầu tháng 7 vừa qua, có trích đăng một bài viết từ một trang mạng có tên là Tanyth Lawless với tựa đề: “Giáo chủ Cộng sản: Karl Marx là người thờ quỷ Sa tăng”. Với sự tham khảo rộng rãi từ nhiều nguồn tài liệu, bài viết có trích lại một bài thơ của K.Marx với tựa đề “Lời khẩn cầu của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), trong đó có một câu như sau: “Ta không còn lại gì ngoài thù hận”.
Chủ nghĩa cộng sản không chỉ đề ra một giải pháp kinh tế cho thế giới. Chủ nghĩa này thiết yếu là một tôn giáo và là một tôn giáo xây dựng trên hận thù. Tác giả của bài báo trên trang mạng Danlambao viết: “Marx đối với nhân loại không hề có yêu thương, mà chỉ có thù hận. Hơn 100 năm qua, chủ nghĩa cộng sản thực tiễn đã thực hiện giấc mộng của tín đồ Sa tăng. Marx đã đem đến cho nhân loại tai ương và thống khổ lớn phi thi thường”. Thù hận là tên gọi đích thức của vô đạo.
Tôi được sinh ra và lớn lên như một tín hữu Kitô. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, đã nói “tôn giáo nào bạn cho là tốt nhứt đối với bạn, thì đó là tôn giáo tốt nhứt”, tôi vẫn xem Kitô giáo là tôn giáo tốt nhứt đối với tôi. Nhưng không vì thế mà tôi dám khinh thường các tôn giáo khác. Tôi xác tín rằng không gì làm “ố danh đạo” của tôi và xúc phạm đến Đấng sáng lập tôn giáo của tôi cho bằng nhân danh Ngài để cư xử bạo động và hận thù dù dưới bất cứ hình thức nào.
Mỗi tuần tôi đến nhà thờ một lần để gặp gỡ với những người chia sẻ cùng một niềm tin với tôi. Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, tại công sở, nơi phố chợ, trên đường đi, bất cứ nơi nào và trong cảnh huống nào...tôi cũng gặp được rất nhiều người đến từ đủ mọi tín ngưỡng cũng như vô tín ngưỡng. Giữa tôi và họ có sợi giây liên kết của tình người, sự tương kính, tình liên đới, sự tử tế và yêu thương. Đã và đang phải cùng dùng chung với nhau những con đường, thì tại sao lại không thể gọi nhau là đồng đạo?




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét