Chu Thập
10.7.12
Mùa Giải Túc Cầu Âu Châu vừa rồi, tôi có
được cái thú ngồi “một mình một chợ” trước màn ảnh truyền hình để theo dõi các
trận đấu. Dĩ nhiên, làm sao sánh với bầu khí hào hứng trong sân vận động hay
trong một đám đông. Thể thao có cái khí thế chẳng khác nào một tôn giáo và tôn
giáo nào cũng có một sức mạnh đặc biệt khi các tín đồ được qui tụ thành đám
đông. Mà đám đông thì dễ làm cho con người trở thành cuồng tín và vong thân. Có
những điều bình thường khi ở một mình con người không làm hay không dám làm.
Nhưng bị đám đông hô hào, lôi cuốn, xách động thì xem ra chuyện gì cũng có thể
xảy ra. Ngay từ thuở nhỏ, tôi đã nhận thấy cái sức mạnh của đám đông trong thể
thao. Làng tôi vốn có một đội túc cầu, chơi thì chẳng ra gì nhưng lại rất tự
tin. Sở dĩ đội túc cầu của làng tôi tự tin là bởi vì lúc nào cũng được sự ủng hộ
nhiệt tình của dân làng. Và nếu dân làng tôi có nhiệt tình đến độ hung hãn là
vì trong làng có một ông thày dạy võ “Bình Định” mà tiếng tăm vang dội đến vài
tỉnh là ít. Không rõ ông có truyền ngón nào cho con cháu ông không, nhưng hễ có
đụng độ với cái đám này là lũ trẻ chúng tôi luôn chọn “tẩu vi thượng sách”, bỏ
của chạy lấy người. Mỗi lần đội banh nhà
có đấu giao hữu với các đội của những làng bên cạnh, ông thày võ này luôn là một
tấm bùa hộ mạng cho các cầu thủ cũng như cả làng. Trong các trận đấu, đội khách
nào lỡ chơi xấu một cách lộ liễu thì ông thày võ này liền nhào vô sân. Bất kể
tiếng còi của trọng tài, ông tả xung hữu đột một lúc thì thế nào cũng có cầu thủ
của đội bạn không sưng đầu sứt trán thì cũng què giò. Đó là chưa kể cái đám
đông của làng tôi luôn túc trực để nhào vô ăn có. Thành ra, tổng kết, đội banh
của làng tôi và dân làng tôi lúc nào cũng “thắng”, không trong trận đấu thì
cũng sau trận đấu.
Tôi không sợ đám đông. Tôi cũng chẳng “dị
ứng” với đám đông. Nhưng có lẽ do bản chất “hướng nội” tôi thấy mình dễ thực
hành tôn giáo trong chốn riêng tư hơn giữa đám đông. Đối với cái “đạo” thể thao
cũng thế. Tôi thích ngồi một mình trước màn ảnh truyền hình hơn là gia nhập vào
một đám đông để hò hét, cổ võ, khích bác hoặc đấu võ mồm. Ngồi một mình, tôi có
đủ bình tĩnh để thưởng thức những đường banh hay, những pha tấn công sôi nổi,
những cú làm bàn đẹp...dù thuộc bên nào. Không cá cược đỏ đen, không “bắt” cầu
thủ hay đội banh nào, cho nên tôi giữ được sự trung lập khi theo dõi các trận đấu.
Một khi đã giữ được cái thế trung lập ấy, tôi lại thấy người đáng vinh danh nhứt
trong các trận đấu có lẽ phải là trọng tài. Trọng tài phải được xem là người
quan trọng nhứt trong trận đấu. Lý do thật đơn giản: hãy thử tượng tượng, nếu không
có trọng tài thì làm gì có giao đấu!
Tôi không nhớ mình đã biết đá banh từ
lúc nào. Tôi chỉ nhớ có mỗi một điều là lúc nhỏ, chúng tôi chơi banh theo luật
rừng nhiều hơn luật túc cầu do Tổng hội túc cầu thế giới đề ra. Thành ra, chúng
tôi chẳng cần có bất cứ trọng tài nào cả. Dĩ nhiên, đã nói đến luật rừng thì
đương nhiên thằng nào to con và biết chơi xấu là thắng. Những thằng ỷ mình to
con, lớn xác, “chưn” cẳng cứng như cột nhà cháy, tham gia trận đấu với tư cách
vừa là cầu thủ vừa là trọng tài: chúng nó làm mưa làm gió trên sân cỏ; chúng nó
muốn đốn ngã ai cũng được; chúng nó “vẽ” thế nào cũng được. Và dĩ nhiên, lúc
nào chúng nó cũng thắng! Đúng là luật rừng. Cũng may, thế giới càng văn minh thì
luật rừng càng lùi bước. Trên sân cỏ cũng như trên sân chính trị!
Ngồi theo dõi các trận đấu, nghe trọng
tài thổi còi, nhìn trọng tài phân xử, tôi thấy trọng tài thật uy dũng. Trọng
tài đúng là “cha mẹ”. Dĩ nhiên, phải là cha mẹ Việt nam ngày xưa kia. Lúc đó,
cha mẹ bảo sao con cái nghe vậy. Cha mẹ đặt đâu con cái ngồi đó. Trên sân cỏ,
nhứt là trong túc cầu, trọng tài phán sao thì mọi cầu thủ đều phải nghe vậy. Có
những “lỗi” được ống kính quay phim chiếu chậm lại thật rõ ràng không sai chạy
vào đâu. Vậy mà trọng tài có phán bảo ngược lại thì mọi người cũng đành tuân phục.
Có những trái banh rõ ràng đã lọt vào khung thành, nhưng trọng tài ra hiệu chối
bỏ thì mọi người cũng đành chịu.
Hình ảnh của trọng tài trong sân cỏ luôn
làm tôi liên tưởng đến đủ loại trọng tài ở mọi cấp bậc trong các xã hội dân chủ,
từ các viên cảnh sát đến các thẩm phán trong các tòa án. Các trọng tài có hành
xử một cách độc lập và chí công vô tư thì trật tự xã hội, công lý mới thực sự
được tôn trọng và mọi người mới thực sự được bình đẳng trước pháp luật. Tôi
nghĩ đến chuyện mới đây tại Hoa kỳ. Chương trình cải tổ y tế của tổng thống
Barack Obama, thường được mệnh danh là Obamacare, mặc dù đã được lưỡng viện Quốc
hội thông qua nhưng lại bị đến 26 tiểu bang kiện lên Tối Cao Pháp Viện vì bị
cho là “vi hiến” do buộc mọi người dân Mỹ phải mua bảo hiểm y tế. Chương trình
y tế này đã trở thành một cuộc thi đấu thật sôi nổi giữa hai Đảng Cộng Hòa và
Dân Chủ. Đang ở thế đối lập cho nên Cộng Hòa chống lại luật này cho tới cùng. Vậy
mà cuối cùng, chỉ do lá phiếu thuận của thẩm phán John Roberts, người được tổng
thống Cộng hòa George Bush đề cử vào Tối Cao Pháp Viện hồi năm 2005, chương
trình cải tổ y tế của tổng thống Dân chủ Obama đã được phán quyết là không hề vi hiến.
Thẩm phán John Roberts đúng là một trọng tài chí công vô tư.
Nếu so sánh sân cỏ với sân chính trị,
người ta thấy rõ ràng rằng trong các cuộc thi đấu chính trị trong các chế độ độc
tài, không hề có trọng tài để đứng ra phân xử ai lỗi ai phải, ai thắng ai được.
Nhà độc tài hay đảng độc tài luôn luôn thắng bởi vì họ vừa thổi còi vừa thi đấu.
Cố giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã dùng một hình ảnh dễ hiểu hơn: chế độ độc tài thượng
đài, trói tay chân đối thủ lại rồi vừa thổi còi vừa bắt thi đấu với mình! Chơi
cha như thế thì làm sao mà không “thắng”!
Hình ảnh này chỉ có thể gợi lên một vở
hài kịch lố bịch mà thôi. Thật ra, cũng chẳng ngoa lắm nếu gọi chế độ độc tài là một hài kịch.
Mới đây tôi được một trận cười thật đáng
giá khi xem cuốn phim “The Dictator” (nhà độc tài) do danh hài Anh Sacha Baron
Cohen đồng biên soạn và thủ diễn. Chỉ cần đọc hàng chữ mở đầu cuốn phim “ưu ái
tưởng nhớ lãnh tụ kính yêu Kim Jong Il” (in loving memory of Dear Leader Kim
Jong Il) của Bắc Hàn cũng đủ để cười ngất rồi.
Không rõ Cohen có nhắm riêng nhà độc tài
nào không, nhưng hầu hết tên tuổi của những nhà độc tài khét tiếng gần đây như
Saddam Hussein của Iraq, Muammar Gaddafi của Lybia, Robert Mugabe của Zimbabwe...
đều được nhắc đến trong cuốn phim. Và qua hình ảnh của một nhà độc tài tên là
Ahmadeen nào đó tại Trung Đông, có lẽ Cohen không chỉ muốn gợi lên các chế độ độc
tài trong Vùng này, mà còn ám chỉ đến tất cả những chế độ độc tài hiện nay trên
khắp thế giới. Dưới mắt danh hài này, tất cả các nhà độc tài hay các chế độ độc
tài đảng trị đều có chung một mẫu số: họ đang diễn một hài kịch lố bịch nhưng lại
không cho phép người dân cười! Tiêu biểu
nhứt có lẽ là màn chạy nước rút trong phần đầu của cuốn phim. Tướng Ahmadeen là
người đứng ra tổ chức và làm trọng tài trong cuộc thi đấu. Dĩ nhiên, ông cũng là
lực sĩ tham gia cuộc thi đấu. Ông cầm trong tay một khẩu súng lục. Ông chạy trước
rồi mới bắn phát súng lệnh cho các lực sĩ khác chạy theo. Người nào chạy gần đến
ông hay muốn qua mặt ông đều bị ông quay lại bắn vào giò. Thi đua như thế thì
đương nhiên người duy nhứt đến đích chỉ có thể là nhà độc tài mà thôi. Đây là
màn hài kịch tiêu biểu nhứt trong muôn vàn vở hài kịch mà các nhà độc tài và
các chế độ độc tài đảng trị đang trình diễn. Chỉ có điều họ diễn kịch nhưng lại
cấm người xem cười.
Đây là điều đã và đang diễn ra tại Việt
nam kể từ khi Đảng Cộng Sản “cướp” (chữ của chính người CS) chính quyền và cai
trị đất nước từ hơn nửa thế kỷ qua. Ở đâu cộng sản cầm quyền thì ở đó nụ cười
phải tắt lịm hay đúng hơn chỉ có nụ cười giả tạo. Trong bài viết có tựa đề “Xuân Diệu: chủ soái trường thơ “tân con cóc”,
đăng trên báo mạng Đàn Chim Việt ngày 28 tháng 6 vừa qua, nhà thơ Trần Mạnh Hảo
kể lại: “Năm 1961 là năm “đỉnh cao muôn
trượng” (Tố Hữu), trên ghế nhà trường, chúng tôi được học lý luận văn học rằng:
nền văn học của chúng ta là nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, một nền văn
học Tuyệt Đối Không Có Bi Kịch. Học trò không hiểu hỏi thày: thưa, không bi kịch
là sao ạ? Là không có nỗi buồn, không có nỗi đau, không có nhớ nhung sướt mướt
như bọn tư bản hèn hạ...Thế văn học cổ của ta như thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
toàn nỗi buồn thì có phải là văn học không? Không, cần phải xóa bỏ thứ văn học
buồn thảm của giai cấp phong kiến tư sản. Rồi thầy kể rằng thầy được nghe chính
ông Hà Huy Giáp, thứ trưởng bộ văn hoá, người đưa ra lý thuyết văn học xã hội
chủ nghĩa không có bi kịch, giảng tại Ty Giáo Dục rằng bên Liên Xô, đàn bà vừa đẻ vừa cười tươi
như hoa, có bà vừa đẻ vừa cầm ảnh Lê Nin, vừa đẻ vừa hát bài “Chiều Matxcova”
sướng muốn chết. Rằng các nhà khai sáng chủ nghĩa cộng sản muốn xóa bỏ bi kịch
trên trái đất, con người chỉ còn biết cười hềnh hệch từ sáng đến tối”. Dĩ
nhiên, cười theo lệnh mà khóc cũng phải theo lệnh. Đã cười mà phải cười theo lệnh
hoặc khóc mà cũng phải khóc theo lệnh, đây không là một hài kịch chỉ diễn ra
trên sân khấu thì là thứ gì?
Tội nghiệp cho người dân, nhứt là những
người cầm bút. Khi quyền được cười và được khóc bị tước đoạt thì tiếng khóc và
nụ cười lẫn lộn với nhau. Đây là trường hợp của nhà văn Nguyễn Tuân như được
nhà văn Nguyễn Minh Châu kể lại trên báo Văn Nghệ ở Hà nội năm 1987: “Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên
giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ”.
Nói rồi ngửa mắt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống
đất, giọt đổ vào lòng.” (Nguyễn Hưng Quốc, trích trong bài viết “Cái Hèn và
Cái Khổ của giới Cầm bút Việt nam”, Đàn Chim Việt, 29/6/12)
Chỉ có trong hài kịch do chế độ độc tài
xã hội chủ nghĩa Việt nam dựng lên mới có khóc cười lẫn lộn như thế. Và có lẽ
cũng chỉ trong hài kịch ấy mà ngày nay dưới chân tượng đài Lý Thái Tổ, đối diện
với Hồ Gươm, mới có cảnh mỗi sáng sớm, hàng trăm người cứ nhìn nhau để cười ngặt
nghẽo. Tại sao lại phải nhập từ Ấn độ về cả một môn “Yoga Cười” để tập cho người
dân biết cười lại? Tôi e rằng người dân cũng cần tập để có thể “khóc” lại một
cách tự nhiên như một bản năng đánh mất vì rõ ràng có những chuyện thật đáng
khóc nhưng người ta lại trở nên vô cảm.
Được sống trong một chế độ dân chủ quả
là một phúc lành. Không nơi nào quyền được cười được tôn trọng và thể hiện một
cách sung mãn cho bằng trong một chế độ dân chủ. Bản tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền có lẽ đã không lường được chuyện người dân trong các chế độ độc tài đảng
trị bị tước mất cái “quyền được cười” nên đã không liệt kê cái quyền “tối thượng”
này vào danh sách những quyền căn bản của con người. Kỳ thực, chối bỏ quyền được
cười cũng là xúc phạm trầm trọng đến phẩm giá con người.
Sống trên nước Úc Đại Lợi này, tôi thấy
mình cũng được phép “ăn theo” báo chí để cười những chính sách và đường lối của
chính phủ mà tôi không hài lòng. Ngay cả cái mũi dài “Pinocchio” của bà thủ tướng
Julia Gillard, tôi cũng có thể cười mà không sợ phải bị đưa đi “cải tạo” hay
giam giữ trong trại “phục hồi nhân phẩm”.
Nhưng với tôi, quan trọng hơn cả, là thấy
mình vẫn còn có thể cười với cuộc sống mỗi ngày cũng như đón nhận không biết
bao nhiêu nụ cười thân thiện và cố gắng đáp trả lại bằng những nụ cười của nhân
ái, cảm thông và yêu thương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét