Chu Thập
15.4.16
Tôi vốn là
người vụng về trong chuyện giao dịch và làm ăn. Cứ đụng tới chuyện phải thương
lượng, kỳ kèo về giá cả là tôi thấy như đớ người ra. Bán một món đồ cũ với giá
mà tôi cho là có thể gây thiệt thòi cho người khác hoặc mua lại một món đồ của
người khác mà phải ép giá một chút là tôi cảm thấy áy náy trong lòng, như thể
mình đã làm một việc thiếu lương thiện. Thành ra cũng có lúc tôi bị hớ.
Chẳng hạn
như mới đây tôi phải đến một khu phố có đông người Việt ở Sydney để đặt làm
thêm một cái chìa khóa cho chiếc xe cũ. Qua giọng nói, mái tóc và màu da, tôi
đoán chừng người chủ của cửa tiệm chuyên làm đủ loại chìa khóa xe là một người
gốc Trung Đông. Ở một số nước Á Châu, đặc biệt
là Việt Nam chẳng hạn, khi đi mua sắm hoặc trước khi đặt hàng người ta
phải trả giá là chuyện bắt buộc. Còn ở Úc Đại Lợi này, đi mua sắm mà kỳ kèo giá
cả tôi cứ sợ người ta cười vào mặt. Có khác gì đến khu buôn bán hàng hiệu ở
Beverly Hills bên Mỹ mà hỏi giá! Do đó khi trao cho tôi chiếc chìa khóa và đòi
tôi 80 đô, tôi rút tiền trả ngay mà chẳng thấy phải kỳ kèo làm gì.
Trước khi rời
cửa tiệm, tôi hỏi thăm người chủ về một cửa tiệm có thay giây đồng hồ. Tôi nói
rõ là tôi muốn có một giây da thứ thiệt. Ông bảo đưa đồng hồ để ông thay giây
cho. Có thêm một chìa khóa xe mới, có giây đồng hồ mới, tôi cảm thấy hài lòng về
“dịch vụ” của người chủ tiệm gốc Trung Đông. Nhưng khi tôi khoe về giá của chiếc
chìa khóa xe mới làm, một người quen của tôi liền nói rằng tôi đã bị hớ. Giá
thông thường để làm thêm một chiếc chìa khóa “sơ cua” ở tiệm đó chỉ
có 50 đô thôi. Còn giây đồng hồ người chủ tiệm gốc Trung Đông đã mau mắn thay
cho với “giá phải chăng”, tôi chỉ mới đeo được đúng 3 ngày là tuột khỏi đồng hồ.
Và khỏi cần xem kỹ cũng lòi ra giây da “dỏm”.
Cũng may,
trong một xã hội được xây dựng trên lòng tin tưởng như Úc Đại Lợi này, mẫu số
chung trong giao dịch, làm ăn, buôn bán không phải là sự lường gạt lẫn nhau. Số
đông vẫn còn xây dựng cuộc sống xã hội trên sự tin tưởng. Xã hội Úc có văn minh
tiến bộ thiết yếu là bởi được xây dựng trên lòng tin tưởng giữa người với người.
Nghĩ như thế cho nên, dù có bị đôi chút thiệt thòi, tôi vẫn xem sự tin tưởng
nơi người khác như thứ vốn quý nhứt mình cần phải luôn bảo tồn và phát huy.
Tháng Tư Đen
hàng năm là dịp để người Việt hải ngoại suy tư về đủ điều. Năm nay trong loạt
bài viết về những ngày hấp hối của Miền Nam Việt Nam cách đây đúng 41 năm, người
viết tạp ghi Huy Phương của báo Người Việt đã nói đến cái “ngu” của ông và của
hàng hàng lớp quân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa. Tác giả mở đầu bài tạp ghi:
“Tôi ngu vì đã suy diễn hay hiểu sai thời
gian đi “học tập”, nên chỉ đem theo 10 gói mì ăn liền Vifon, để ăn sáng trong
10 ngày, ngày thứ 11 thì đã ăn cơm nhà rồi!” Mãi cho đến khi bị cho lên tàu
để đưa ra Bắc, ông cũng vẫn còn “ngu” để tin lời một quản giáo cai tù nói rằng
“Đưa các anh ra biển thì cũng từ từ, trước
hết là gần bờ, sau mới dần dần đưa các anh ra xa hơn, nếu không các anh chóng mặt,
say sóng, chịu làm sao nổi” (x.Người Việt online 3/4/2016)
Tội nghiệp
các quân cán chính, tức thành phần ưu tú trong xã hội Việt Nam trước năm 1975.
Họ đã quên mất lời cảnh cáo của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu “đừng nghe những
gì cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”. Thật ra, có lẽ họ đã không
quên lời dặn của ông Thiệu đâu, mà chỉ muốn dốc toàn thiện chí và lòng tin tưởng
để đánh trận chiến cuối cùng với người cộng sản khi ra trình diện. Quân đội của Việt Nam Cộng Hòa có thể đã thua người cộng sản
trên trận chiến của vũ khí giết người và nhứt là về sự tàn bạo, độc ác và dã
man. Nhưng thứ vũ khí vô hình vốn gìn giữ cho xã hội Miền Nam có được bộ mặt
nhân bản và văn minh theo đúng nghĩa là lòng tin tưởng lẫn nhau giữa người với
người thì lại không hề có trong tự điển của những người cộng sản. Họ đã chiến
thắng bằng dối trá , nghi kỵ và độc ác. Nhưng cũng từ lúc đó, thế giới đã thấy
được bộ mặt thật của họ hơn bao giờ hết. Cái ngu mà tác giả Huy Phương nói đến
khi ra trình diện để bị đày ra Bắc là một cái ngu “dễ thương”. Chính cái ngu ấy
đã lột được mặt nạ của dối trá, độc ác, tàn bạo và giả nhân giả nghĩa, đồng thời
nói lên được thế nào là nhân bản và văn minh. Có lẽ thế giới đã nhận ra được bộ
mặt thật của người cộng sản qua cái “ngu” ấy.
Cái ngu “dễ
thương” của quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa hay đúng hơn trận chiến cuối cùng
của họ khi đặt tất cả lòng tin tưởng nơi “bên thắng cuộc” là khởi đầu của một
cuộc chiến thắng đích thực: chiến thắng của sự lương thiện trên sự gian dối,
chiến thắng của tình người trên sự độc ác, chiến thắng của sự thật trên sự dối
trá...Trong ý nghĩa ấy, toàn cõi Việt Nam mà những người cộng sản đã xem như một
đài vinh quang sau khi đã “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” và nhứt là sau khi đã lùa
vào rọ những thành phần ưu tú nhứt của xã hội Miền Nam, nay đã biến thành một
bãi tha ma hoàn toàn vắng bóng những giá trị nhân bản và đạo đức, cách riêng một trong những giá trị nền tảng của xã hội là
lòng tin tưởng giữa người với người. Trong bài viết có tựa đề “Cái ác trỗi dậy, vì người Việt không còn niềm
tin” được đăng trên Việt Luận số ra ngày thứ Sáu 1 tháng 4 vừa qua, nhạc sĩ
Tuấn Khanh đã ghi lại “chuyện thường ngày ở huyện” tại Việt Nam: “Hàng ngàn người va chạm nhau trong dịp lễ Tết,
xung đột đến mức vào bệnh viện, nông dân âm thầm bỏ hóa chất vào ruộng đồng,
người chăn nuôi bơm thuốc độc vào sản phẩm trước khi mang ra chợ.” Đó là hình ảnh quá quen thuộc mà ngày nay, cứ
nhắc đến Việt Nam ai cũng đều liên tưởng đến trước tiên. Nhạc sĩ Tuấn Khanh đã
có lý để nói đến một cuộc chiến không tên gọi đang diễn ra hàng ngày tại Việt
Nam. Chiến tranh với súng đạn giữa hai miền Nam Bắc đã chấm dứt từ 41 năm qua.
Nhưng cuộc chiến “không có người chiến thắng
mà chỉ có tự hủy diệt như trong đấu trường La Mã Colosseum, còn những kẻ chủ
mưu nào đó thì hò hét và vỗ tay trên các khán đài” thì vẫn tiếp diễn. Đúng
như nhà báo Ngô Nhân Dụng đã nhận xét, cả dân tộc Việt Nam hiện đang tự sát tập
thể, bởi vì ngoài hàng hóa độc hại nhập từ Trung Quốc, người dân trong nước bị
buộc phải sản xuất và tiêu thụ toàn những thực phẩm độc hại (x. Người Việt
online 2/4/2016). Người dân Việt Nam hiện nay không những phải lừa gạt người
khác mà cũng phải tự lừa gạt chính mình...để chết! “Cả một dân tộc đang tự sát
tập thể là như thế”.
Với tôi, sở
dĩ có hiện tượng “tự sát tập thể” như thế tại Việt Nam là bởi vì con người
không còn tin tưởng lẫn nhau nữa. Thỉnh thoảng nghe mấy ông cộng sản lên tiếng
báo động về việc dân chúng không còn tin tưởng ở Đảng và Nhà nước nữa. Bắt giam
một nhà bất đồng chính kiến nào đó, các ông cũng luôn gán cho họ tội danh “âm
mưu lật đổ nhà nước, gây chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc và làm xói mòn
lòng tin của dân chúng đối với Đảng và Nhà nước”. Thật ra, kể từ khi các ông cưỡng chiếm Miền
Nam, người dân có bao giờ tin tưởng các ông đâu mà đã đánh mất hay giảm lòng
tin. Chiến thắng bằng bạo lực, dối trá và vô đạo của mấy ông cũng đồng nghĩa với
cái chết của các giá trị đạo đức, nhứt là lòng tin tưởng của con người. Đó là
cái chết toàn diện của cả một dân tộc.
Một xã hội
mà lòng tin tưởng giữa người với người không còn nữa thì đúng là một xã hội
đang chết. Có lẽ chẳng có nơi nào trên thế giới này con người nhìn đâu cũng thấy
kẻ thù cho bằng trong các chế độ cộng sản. Sống mà nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và
tự xây lên một nhà tù vô hình để giam mình vào thì có khác nào tự đào mồ để
chôn mình.
Cứ mỗi lần
tưởng niệm Tháng Tư Đen, tôi lại thấy mình may mắn. Nếu còn sống lay lất trong
nước thì có lẽ tôi cũng “tự sát” như bao người khác vì cái vốn của lòng tin tưởng
nơi người khác đã cạn kiệt. Thế giới văn minh, dân chủ và tự do đã không ngừng
khơi dậy và nuôi dưỡng lòng tin nơi tôi. Dĩ nhiên, đó không phải là một thứ vốn
tự nhiên mà có. Nó đòi hỏi một sự chiến đấu liên tục và từng ngày. Một cách nào
đó, tôi xây dựng nhân cách của tôi bằng cách trau dồi lòng tin tưởng tôi dám đặt
nơi người khác.
Để sống và sống
một cách lành mạnh, con người cần có lòng tin tưởng: được người khác tin tưởng
mình đã đành, mà cũng phải biết tin tưởng người khác. Úc Đại Lợi nơi tôi đang sống
chắc chắn không phải là một xã hội hoàn hảo. Ở đâu mà chẳng có những thành phần
bất lương và những kẻ phản bội. Nhưng nếu vì những con người như thế mà tôi tự
xây lên “vạn lý trường thành” để tự vệ thì cuộc sống của tôi sẽ ngột ngạt biết
chừng nào.
Tôi tin ở sức
mạnh của lòng tin tưởng mỗi khi nhớ lại cử chỉ của vị giám mục đối với tù nhân
Jean Valjean trong quyển tiểu thuyết nổi tiếng “Những Kẻ Khốn Cùng” (Les
misérables) của văn hào Pháp Victor Hugo (1802-1885). Được vị giám mục đối xử rất
tử tế, vậy mà trước khi ra khỏi nhà của ông, Jean Valjean cũng tìm cách “chôm”
mấy cái chân đèn đắt giá của ông. Nhưng khi tù nhân này bị cảnh sát bắt vì tội
ăn cắp, chính vị giám mục đã đứng ra bảo lãnh và xác nhận rằng chính ông đã tặng
mấy chiếc chân đèn cho người tù. Tôi tin rằng sự cảm thông và cử chỉ tử tế của
vị giám mục đã có sức cải hóa con người của Jean Valjean.
Trên trang mạng
Psychology Today, chuyên gia tâm lý Steven Stosny đã chia sẻ một câu chuyện cảm
động. Lúc còn là sinh viên, nhân ngày Lễ Tạ Ơn, ông về thăm nhà và thấy trong
nhà có khách. Đó là những người bà con xa của mẹ ông. Họ đang thất nghiệp và được
mẹ ông rước về nhà vài ngày. Điều khiến cho người sinh viên phải khó chịu là cả
nhà ồn ào như một cái chợ. Ngoài ra, mẹ anh còn giải thích rằng những người bà
con xa này còn ăn cắp tiền, quần áo và nữ trang của bà. Chính vì vậy mà bà đành
phải khóa hết mọi cửa phòng trong nhà. Nhưng khi được con mình hỏi tại sao
không tống khứ họ ra khỏi nhà, người mẹ giải thích rằng nếu đuổi họ ra khỏi nhà
trong lúc này, họ sẽ đi về đâu.
Từ đó, tác
giả Stosny luôn xem cách cư xử của mẹ mình như một bài học: không thể tin tưởng
người khác nếu không có sự cảm thông!
Trong cuộc sống,
có lẽ chẳng có cái ngu nào giống cái ngu nào. Nhưng trong các cái ngu, cái ngu
dễ thương nhứt vẫn là biết mình bị lừa gạt hay phản bội mà vẫn chiến đấu để tiếp
tục đặt tin tưởng nơi người khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét