Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016

Những bộ lạc bị lãng quên


15.4.16

Theo một bản phúc trình mới đây, việc khai thác vàng lậu tại vùng Amazon bên Châu Mỹ La Tinh có thể làm cho các bộ lạc Yanomami và Ye’kuana  chết dần chết mòn vì bị nhiễm chất thủy ngân. Nhiều người lo sợ rằng một số trong những bộ lạc chưa từng tiếp xúc với ánh sáng văn minh của thế giới có thể hoàn toàn bị tiêu diệt trong một tương lai gần đây.
Bản phúc trình nói trên được Cơ quan Y tế của Ba Tây có tên là Fiocruz thực hiện với sự cộng tác của Viện Xã hội Môi sinh gọi tắt là ISA. Tài liệu cho thấy có đến 90 phần trăm các cộng đồng thổ dân được nhận diện trong vùng, trong số này hơn một nửa thuộc bộ lạc Nahua, đang trực tiếp bị nhiễm độc vì chất thải hóa học.
Tuy chưa có thống kê chính thức, nhưng nhiều bản phúc trình ước tính rằng hiện có ít nhất từ 70 đến 100 bộ lạc trên khắp thế giới, từ Ba Tây đến Ấn Độ và Papua New Guinea, chưa từng tiếp xúc với ánh sáng văn minh. Có thể gọi họ là những dân tộc thuộc thế giới thứ tư. Đối mặt với nhiều vấn đề, cách sống truyền thống của họ đang bị đe dọa, nhất là khi những khu rừng rậm, vốn là môi sinh bình thường của họ, đang bị phá hủy.
Các hành động phá hoại môi sinh của các bộ lạc này như việc mở mang nông trại, thương mại hóa nông nghiệp và nhất là việc khai thác gỗ lậu là những nguyên nhân chính đang hủy hoại môi trường sinh sống của các bộ lạc nói trên.
Khoảng năm 2013, những hành động hủy hoại nói trên đã tồi tệ đến độ người dân của bộ lạc Mascho-Piro tại vùng Đông Nam Amazon thuộc Peru đã tìm cách liên lạc với thế giới bên ngoài. Kể từ năm 2011, đây là lần thứ hai bộ lạc này muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Cuộc gặp gỡ của bộ lạc này với thế giới bên ngoài đã kéo dài 3 ngày. Chính phủ Peru vẫn không hiểu tại sao người dân của bộ lạc này đã có hành động như thế. Nhưng nhiều người cho rằng sở dĩ bộ lạc này đã rời bỏ làng mạc của mình là vì họ đã thất vọng với việc khai thác gỗ lậu và nhất là vùng đất của họ đã bị những kẻ khai thác gỗ lậu và các con buôn ma túy xâm phạm.
Nhưng đối với các bộ lạc này, các tổ chức khai thác gỗ lậu không phải là những “người khách không được mời” duy nhất.
Tại Peru, các tổ chức bào chế ma túy đã sử dụng các khu rừng rậm để tránh bị theo dõi. Nhưng tại đây họ lại đụng độ với các bộ lạc thổ dân. Năm 2011, chính phủ Ba Tây  đã phải đưa quân đội đến để bảo vệ các bộ lạc đang sinh sống biệt lập trong các khu rừng già. Quân đội cho biết các con buôn ma túy đã tấn công và trấn lột các làng mạc của người thổ dân.
Hiện nay xây dựng hạ tầng cơ sở là một trong những lãnh vực được hầu hết các chính phủ quan tâm tới. Dĩ nhiên sự phát triển hạ tầng cơ sở luôn mang lại lợi ích cho thị dân và cư dân của các vùng ngoại ô. Nhưng nỗ lực phát triển này cũng thường gây xáo trộn cho cuộc sống của các bộ lạc trong các khu rừng già.
Trong vùng đảo Andaman thuộc Ấn Độ, chính quyền địa phương đã cho mở một con đường chạy xuyên qua khu rừng vốn là nơi sinh sống của bộ lạc Jarawa. Bộ lạc này hiện chỉ còn đúng 403 người. Họ là những người đơn sơ, rất dễ bị lừa gạt và khai thác. Con đường không những đã cắt hòn đảo thành hai mảnh, mà còn dọn đường cho những kẻ săn bắn bất hợp pháp tìm kiếm những loại thú quý hiếm trong những khu rừng già. Kỹ nghệ du lịch trên đảo cũng bị chỉ trích vì những cuộc “săn người”, tức đến với người thổ dân chẳng khác nào đi xem sở thú. Mỗi ngày có đến hàng trăm chiếc xe chở du khách đậu chờ trước cổng làng để được vào thăm bộ lạc Jarawa. Các du khách được cảnh cáo: không được chụp hình, không được tiếp xúc hoặc gây xáo trộn cho cuộc sống của người thổ dân.
Tòa án Tối cao của Ấn Độ đã ra lệnh đóng lại con đường, nhưng chính quyền địa phương  vẫn xem thường phán quyết, tiếp tục cho lưu thông trên con đường này để khai thác kỹ nghệ du lịch. Cách đây 14 năm, người dân của bộ lạc Jarawa đã suýt bị tiêu diệt vì dịch bệnh đến từ thế giới bên ngoài.
Hiện nay một trong những điểu đáng lo ngại cho thế giới chính là đánh mất khả năng kháng cự với một số dịch bệnh của thời đại. Ngay cả một cơn dịch cúm thông thường cũng có thể gây chết người. Vào khoảng giữa thập niên 1980, việc khai thác dầu của công ty Shell đã cho thế giới bên ngoài tiếp xúc với bộ lạc Nahua. Chỉ vài năm sau , hơn 50 phần trăm dân số của bộ lạc này đã chết vì những thứ bệnh mà họ chưa từng phải đối đầu trước đó. Hiện nay, với sự phối hợp của công ty Argentine Puspetrol và dĩ nhiên với sự khuyến khích của Chính phủ Peru,  nhiều công ty đang khai thác khí đốt trong vùng đất của bộ lạc Nahua. Đây là mỏ khí đốt lớn nhất tại Peru. Cộng với việc khai thác gỗ lậu và hoạt động sản xuất ma túy, kỹ nghệ khí đốt tại vùng này có nguy cơ làm cho người thổ dân của bộ lạc Nahua biến khỏi mặt đất này. Phần lớn bị tiêu diệt vì các loại bệnh tật được mang từ thế giới bên ngoài vào.
Việc người Anh đã mang vào Úc Đại Lợi một số bệnh tật mà người thổ dân chưa từng trải nghiệm trước đó là một sự thật không thể chối cãi được. Đã từng có mặt trên vùng đất được xem là hòn đảo lớn nhất thế giới này từ trên 60 ngàn năm trước, người thổ dân Úc hiện đang phải gánh chịu hậu quả khốc liệt của việc đô hộ của người Anh. Trước khi người Anh đặt chân đến Úc Đại Lợi, đã từng có trên 500 bộ lạc với tổng số dân khoảng 750 ngàn người sinh sống trên vùng đất này. Văn hóa của họ đã được phát triển xuyên suốt trên 60 ngàn năm khiến cho người thổ dân Úc được xem là những dân tộc có nền văn hóa lâu đời nhất của thế giới. Mỗi nhóm đều sống gắn liền mật thiết với đất đai và giữ gìn đất đai của họ. Năm 1770, trong chuyến thám hiểm đầu tiên trong vùng Thái Bình Dương, thuyền trưởng James Cook đã chiếm lấy miền duyên hải ở phía Đông của Úc Đại Lợi. Chính phủ Anh lúc đó đã quyết định  biến vùng đất này thành một nơi để lưu đày và giam giữ các tù nhân. Năm 1788, đã có 1500 người gồm thủy thủ đoàn, nhân viên chính phủ và tù nhân cập bến vào địa điểm được gọi là Sydney Cove. Kể từ năm 1788 đến năm 1990, dân số thổ dân Úc đã giảm đi 90 phần trăm. Ba nguyên nhân chính khiến cho dân số thổ dân bị giảm sút một cách thê thảm như thế là: đất đai của người thổ dân bị chiếm đoạt một cách thô bạo, những cuộc xung đột trực tiếp và đẫm máu giữa người thổ dân và người thực dân, người thổ dân phải đương đầu với đủ thứ bệnh tật mới do người Anh mang tới. Toàn quyền Philip đã báo cáo về Anh rằng bệnh đậu mùa đã giết một nửa dân số thổ dân trong vùng Sydney chỉ trong vòng 14 tháng sau đợt di dân đầu tiên của người Anh. Ngoài ra, những khai thác và lạm dụng tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái thổ dân cũng khiến cho người thổ dân bị mắc bệnh hoa liễu ở mức độ của một thứ dịch bệnh. Chính vì chưa hề biết tới những thứ bệnh tật ấy cho nên người thổ dân đã không có đủ sức đề kháng. Điều này hiện cũng đang xảy ra đối với các bộ lạc chưa từng tiếp xúc với ánh sáng văn minh.
Năm 2014, sau khi đã tiếp xúc với một số viên chức của chính phủ Ba Tây, một bộ lạc tại khu rừng già Amazon đã mắc phải bệnh cúm. Chính phủ Ba Tây đã tìm cách chấn chỉnh tình hình bằng cách buộc họ phải chích ngừa. Nhưng các thổ dân đã bỏ trốn vào trong rừng sâu. Họ đã  mang theo vi trùng cúm và truyền bệnh cho các nhóm thổ dân khác.
Bên cạnh các tổ chức khai thác gỗ lậu, các nhóm sản xuất ma túy và các nhân viên chính phủ, các nhà thừa sai của các Giáo Hội Kitô Giáo cũng góp phần mang các dịch bệnh mới đến cho các thổ dân. Các nhà thừa sai tưởng họ đến để rao giảng Lời Chúa, nhưng điều họ có thể không ngờ là họ cũng mang đến những dịch bệnh chết người, giết hại chính những người mà họ tìm cách cải đạo.
Từ giữa năm 1982 đến năm 1985, các thành viên của một tổ chức cực đoan có trụ sở tại Hoa Kỳ tên là “New Tribes Mission” (truyền đạo cho các bộ lạc) đã xem thường các thủ tục pháp lý cho nên đã tìm cách liên lạc với bộ lạc Zo’é tại Ba Tây với hy vọng sẽ cải đạo họ sang Kitô Giáo. Dùng phi cơ để bay lượn trên các khu rừng già nơi bộ lạc Zo’é đang sinh sống, tổ chức truyền giáo này đã bắt đầu công tác của họ bằng những gói quà thả xuống cho các thổ dân. Sau đó họ xây dựng một căn cứ truyền giáo gần nơi cư ngụ của các thổ dân và bắt đầu “rao giảng Lời Chúa”. Năm 1987, chỉ 2 năm sau khi “những người lính của Chúa” bỏ đi, 45 người trong bộ lạc Zo’é đã chết vì dịch cúm, sốt rét và những chứng bệnh về đường hô hấp do các nhà truyền giáo mang đến.
Cho tới nay, nhiều bộ lạc mà thế giới văn minh cho là bán khai vẫn tìm cách tránh né ánh sáng văn minh. Chính nhờ xa ánh sáng văn minh mà họ đã có thể tránh được nhiều dịch bệnh của thời đại. Nhưng khả năng đề kháng ấy ngày càng bị đe dọa. Nhiều chính phủ đã đưa ra một số biện pháp để cứu vãn môi trường sinh sống và lối sống truyền thống của các bộ lạc này.
Tại một số quốc gia như Peru và Ba Tây là nơi có nhiều bộ lạc chưa tiếp xúc với ánh sáng văn minh nhất, chính phủ đã ban hành một số luật để ngăn cấm việc tiếp xúc với các bộ lạc này. Đây là biện pháp để ngăn ngừa dịch bệnh cho người thổ dân cũng như tránh các cuộc xung đột. Nhiều khu rừng già đã được khoanh vùng để các bộ lạc có thể sống yên ổn mà không sợ bị xáo trộn bởi ánh sáng văn minh và các hệ lụy của nó. Hầu hết các bộ lạc thổ dân trên khắp thế giới hoặc không hề tiếp xúc hoặc chỉ tiếp xúc một cách gián tiếp với thế giới bên ngoài. Nhiều bộ lạc tại Amazon không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài bởi vì họ đã có những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ. Một số, như bộ lạc Mashco-Piro chẳng hạn, đã rời bỏ những khu định cư do chính phủ thiết lập để trốn về rừng sâu.
Nhưng hiện nay ngày càng có nhiều bộ lạc tìm cách liên lạc với thế giới bên ngoài. Họ làm thế không phải để tiếp xúc với ánh sáng văn minh cho bằng tố cáo sự xâm nhập bất hợp pháp của những người khách không được mời là các tổ chức khai thác gỗ lậu, các nhóm sản xuất ma túy, những người thợ săn thú quý hiếm và ngay cả các nhà thừa sai của các Giáo Hội Kitô. Có lẽ họ chỉ muốn gióng lên một tiếng nói đầy minh triết của họ: Hãy sống và xin hãy để cho chúng tôi được sống! Nhưng liệu tiếng nói ấy có được tôn trọng và lắng nghe không?
(theo http://pickle.ninemsn.com.au/2016/04/08/17/10/uncontacted-tribes-dying)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét