Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016

Hiểu để thương



Chu Thập
8.4.16
Văn phòng Hồng Thập Tự địa phương vừa gởi cho tôi một lá thơ để nhắc nhở tôi về một số cam kết mà tôi đã hứa tuân thủ trong tư cách là một “liên lạc viên” của “bà Tàu” hàng xóm của tôi.
“Bà Tàu” là tên mà tôi đặt cho người đàn bà Hong Kong ở cách nhà tôi hai căn. Tôi gọi bà là  “Bà Tàu” bởi vì bà  là người Hoa duy nhứt trong khu xóm. Khi mới dọn về đây, tôi xem bà chẳng khác nào một người đồng hương. Dù sao, xét về mầu da, văn hóa và ngay cả ngôn ngữ, hai bên cũng rất gần gũi với nhau. Gặp bà, thay vì “hello” tôi cũng “nị hảo” và xổ một vài câu quan thoại học lóm được trong sách tự học tiếng Hoa mà tôi nghĩ “bà Tàu” chẳng hiểu gì cả. Cuối cùng, dù cũng mũi tẹt da vàng, nhưng hai bên đành trao đổi với nhau bằng Anh Ngữ cho chắc ăn. Sự qua lại giữa hai bên cũng rất thân thiết. Bất cứ chuyện gì “bà Tàu” cũng có thể trút bầu tâm sự cho chúng tôi. Và đây mới là vấn đề.
Lúc đầu, tai của tôi còn nhậy cảm và tế nhị cho nên sẵn sàng làm cái sọt rác để “bà Tàu”có thể trút bất cứ rác rưởi nào cũng được. Nhưng thét rồi tôi mới khám phá ra một điều: “bà Tàu” là một người đàn bà không bình thường. Mỗi lần gặp nhau ngoài đường hoặc trao đổi qua điện thoại, tất cả những bực bội của bà đều xoay quanh ông phát thơ và những người hàng xóm mà bà gọi là bọn kỳ thị chủng tộc.
“Bà Tàu” là một người đàn bà không bình thường bởi vì cuộc sống của bà xem ra chẳng giống ai. Bà có 2 cậu con trai. Cả hai đều đã ngoài 30. Cả hai đều xuất hiện trong nhà mẹ mình như những bóng ma. Năm thì mười họa người con thứ mới về nhà một lần. Cậu âm thầm chiếm lấy cái nhà xe làm nơi tạm trú. Người con cả nghe đâu đã xong cao học về khoa học. Bất kể sáng tôi, nắng mưa, lúc nào anh cũng đeo kính mát. Lầm lũi, không chào hỏi ai là thái độ thường tình của anh.  “Bà Tàu” than phiền rằng hai người con trai của bà chẳng ai chịu học lái xe cả. Bà không giải thích lý do tại sao họ không chịu lái xe. Riêng bà có một chiếc xe Toyota mà tôi đoán không dưới 20 tuổi. Chiếc xe cũ kỹ, rĩ sét và đầy bụi hiện đang nằm án ngữ trên lối đi trước nhà. Bà đậu chiếc xe ở vị thế này như một thứ hàng rào để ngăn không cho ông phát thơ dẫm lên bãi cỏ trước nhà của bà. Với chiếc xe gắn máy 2 bánh, ông phát thơ thường tỉnh bơ leo lên bãi cỏ của bất cứ nhà nào để giao thơ. Gặp ngày mưa, chiếc xe 2 bánh tạo ra những đường cày xéo sâu trên bãi cỏ. Ai mà chẳng tức vì hành động vô tình này của người đưa thơ. Thành ra, cứ mỗi lần gặp tôi “bà Tàu” lại lôi chuyện ông phát thơ ra mà cằn nhằn. Cứ như tôi là một thẩm phán ở tòa án địa phương không bằng!
Nhưng từ chuyện ông phát thơ, “bà Tàu” lại lái sang thái độ kỳ thị chủng tộc của những người hàng xóm. Ông “cà thọt” ở sát nách nhà bà là một người đàn ông rất tử tế. Tên ông là James. Nhưng vì thấm nhiễm cái thứ ngôn ngữ đầy miệt thị của người Việt Nam đối với người tàn tật, cho nên thấy ông đi chân cao chân thấp, tôi bèn đặt cho ông cái tên gợi hình và dễ nhớ là “cà thọt”. Nhưng với tôi, ông James là người đàn ông niềm nở, nhiệt tình, vui vẻ và “dễ thương” nhứt trong khu xóm. Vậy mà không hiểu tại sao ông lại được “bà Tàu” dán lên người cái nhãn hiệu kỳ thị. Ngay cả người đàn bà độc thân ở trong căn nhà đối diện với nhà “bà Tàu” cũng được bà gom vào phạm trù kỳ thị.
Vì kỳ thị cho nên trong cái nhìn của “bà Tàu”, những người hàng xóm Úc có nuôi chó cứ tối tối thả chúng nó ra để tha hồ sang phóng uế trên bãi cỏ của bà. Sự tức tối của “bà Tàu” đã tích lũy thành một trái bom được cho nỗ tung vào ngày “Thứ Sáu Tuần Thánh”, tức tuần nghỉ lễ Phục sinh năm ngoái. Tôi vẫn nhớ mãi trận cãi vã to tiếng tưởng chỉ có ở Việt Nam. Hôm đó, người hàng xóm đối diện với nhà “bà Tàu” có khách ở xa đến thăm. Những người khách này mang theo vài cô cậu chó cưng. Tôi không rõ do người chủ lơ đễnh hoặc cố tình, mấy con chó nhỏ đã chạy sang trước bãi cỏ của “bà Tàu” và tỉnh bơ “đại tiện” lên cỏ. Không rõ “bà Tàu” đã khai chiến như thế nào mà phía bên kia cũng ăn miếng trả miếng không vừa. Cuối cùng thì “bà Tàu” đành đầu hàng: một phần vì ngôn ngữ hàng tôm hàng cá trong Anh ngữ của bà không đủ để ứng phó với các đối thủ to mồm hơn, một phần vì cô thân cô thế trong khu xóm này.
“Bà Tàu” là người cô độc và có lẽ cũng cô đơn nhứt trong khu xóm của tôi. Cách đây vài năm, bà đã được giải phẩu để cắt hột cườm trong mắt. Nhưng có lẽ cuộc giải phẩu không thành công mấy cho nên ngày nay, mặc dù đôi mắt vẫn còn đó, “bà Tàu” lúc nào cũng chống gậy và đi đứng lạng quạng như một người mù. Cộng với tình trạng khiếm thị, bà còn bị bệnh cao máu khiến đã có lần bà lên cơn và té ngã giữa đường. Tuy chưa thất thập như tôi, nhưng trông bà chẳng khác nào một cụ bà tám chín chục. Thành ra, do yêu cầu của bà, Hội Hồng Thập Tự mới cho nhân viên đến giúp đỡ bà trong một số dịch vụ cần thiết.
Cách đây một tháng, “bà Tàu” đã gọi điện thoại cho tôi và xin tôi đứng ra làm người liên lạc với Hội Hồng Thập Tự trong những trường hợp khẩn thiết. Trong lá thư gởi cho tôi, Hội Hồng Thập Tự đã nhắc lại một số trách nhiệm của tôi như: liên lạc với Hội khi xảy ra trường hợp khẩn thiết, thăm viếng “bà Tàu” khi được Hội yêu cầu và mỗi khi đi vắng lâu ngày phải cho Hội biết... Tôi thấy không có lý do gì để từ chối làm một liên lạc viên như thế. Lâu nay, vì thành kiến và vì sợ bị quấy rầy tôi đã tỏ ra quá lạnh nhạt với một người hàng xóm mà lẽ ra tôi phải tỏ ra ân cần hơn ai hết.
Nhìn lại mối quan hệ giữa “bà Tàu” và tôi, tôi thấy mình cũng có “vấn đề” khi nhìn về người khác. Tôi chỉ nghĩ về bà như một con người không bình thường, chỉ biết quấy rầy người khác và hoàn toàn không có khả năng để sống chung hòa bình với người khác. Sau khi đã nhận lời làm liên lạc viên với Hội Hồng Thập Tự, tôi mới rà soát lại cái nhìn, cách cư xử của mình đối với “bà Tàu” và nhận ra rằng đây là một con người đang đau khổ, cần được lắng nghe, nâng đỡ và ủi an hơn là xa lánh. Có lẽ nỗi  khổ tâm mà người đàn bà này đang trải qua đã bắt nguồn từ thảm cảnh gia đình. Bà đã có lần kể cho tôi nghe rằng chồng bà là một người Úc chính hiệu, rất thành đạt trong kinh doanh. Nhưng do nghiện rượu, cờ bạc, người chồng đã trở thành vũ phu. Cuối cùng, “bà Tàu” không còn chịu đựng được nữa cho nên mới đâm đơn ly dị. Nhưng có lẽ vết thương do bạo hành gia đình và cuộc chia tay không bao giờ lành cho nên “bà Tàu” mới trở thành một người đàn bà mà tôi chỉ biết dùng ba chữ “không bình thường” để mô tả. Tôi  nghĩ rằng trong ánh mắt của những người Úc trong khu xóm của tôi, “bà Tàu” cũng là một người không bình thường. Và từ đó, do một cuộc sống hôn nhân bất hạnh với một người đàn ông Úc mà bà nhìn đâu cũng cảm thấy bị kỳ thị chăng. Hoặc vì không hiểu rõ hoàn cảnh của bà mà những người Úc trong cái xóm nhỏ của tôi ngấm ngầm hoặc công khai có thái độ kỳ thị với bà chăng.
Riêng tôi, tự vấn lương tâm, tôi thấy mình thiếu sự cảm thông với người đàn bà đáng thương này. Tôi nghiệm ra một điều là trong cuộc sống, nếu tôi luôn có thái độ cảm thông thì tôi dễ có cái nhìn chấp nhận và bao dung về người khác hơn. Mới đây tôi đọc được một bài chia sẻ của nhà văn nữ Bùi Bích Hà trên cột báo thường xuyên của báo Người Việt. Tác giả nhắc đến một bài thuyết pháp của thiền sư Nhất Hạnh với chủ đề “Muốn Thương Phải Hiểu”. Tác giả viết: “Hiểu là cảm thông, là khả năng nhìn vào vị thế người khác để chấp nhận sự khác biệt vì nếu từ chối sự khác biệt ấy ví như bịt mũi không cho người ta thở, nhiều khi mình tắt thở theo vì ngột ngạt”.
Tôi thích hình ảnh được nhà văn Bùi Bích Hà sử dụng để giải thích về thái độ “bế quan tỏa cảng” không muốn chấp nhận sự khác biệt của người khác: từ chối sự khác biệt thì chẳng khác nào “bịt mũi không cho người ta thở mà nhiều khi mình tắt thở theo vì ngột ngạt”. Hình ảnh này không thể không làm tôi liên tưởng đến phản ứng của ông Fidel Castro, người đã cai trị bằng bàn tay sắt tại Cuba trong hơn nửa thế kỷ qua. Trong khi Tổng thống Barack Obama đã vượt qua được một đoạn đường lịch sử dài đến gần một thế kỷ để đến Cuba và tuyên bố: “Tôi đã đến đây để chôn vùi những tàn dư cuối cùng của chiến tranh lạnh ở Châu Mỹ. Tôi đến đây để mở rộng vòng tay hữu nghị với nhân dân Cuba” và bày tỏ hy vọng: “chúng ta có thể đi chung cuộc hành trình này như những người bạn và là hàng xóm và như gia đình với nhau” (x.bài diễn văn của Tổng thống Barack Obama tại Gran Teatro de la Havana hôm 22 tháng 3 vừa qua) thì một  người gần đất xa trời như ông Fidel Castro vẫn cố bám víu vào thứ vinh quang giả tạo của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa để khép lại cánh cửa của đối thoại, của cởi mở và dĩ nhiên của tương lai (x. http://dcvonline.net/2016/04/03/anh-ban-obama). Ông Castro vẫn tiếp tục giam mình trong ngôi tháp ngà ngột ngạt khó thở của ông khi ông từ chối mọi cuộc đối thoại với thế giới bên ngoài và nhứt là khi ông không muốn nhìn nhận những đọa đày khốn khổ trong thiên đàng cộng sản mà ông đã gây ra cho người dân Cuba trong suốt 60 năm qua.
Kinh nghiệm bản thân luôn nói với tôi rằng khi tôi biết ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với người khác, để chấp nhận những khác biệt của người khác, để hiểu và cảm thông với người khác là lúc tôi mới thực sự có tự do. Nhưng dĩ nhiên đó là thứ tự do mà tôi thấy phải chiến đấu từng ngày mới có được.
Tôi có ý tưởng như thế khi đọc lại bài diễn văn của thủ tướng Đức, bà Angela Merkel, tại Quốc Hội Hoa Kỳ dạo cuối tháng 3 vừa qua. Trong bài diễn văn, nữ thủ tướng Đức nói đến tự do mà người dân Đông Đức như bà đã có được khi đứng lên đạp đổ bức tường ô nhục Bá Linh. Kết thúc bài diễn văn bà nói một câu đáng suy nghĩ: “Tự do không tự dưng mà có. Tự do chỉ có thể giành được bằng đấu tranh và tự do phải được bảo vệ từng ngày trong đời sống của chúng ta” (x.Việt Báo online 30/3/2016).
Thủ tướng Merkel nói đến tự do chính trị. Nhưng cuộc đấu tranh từng ngày để có tự do và để bảo vệ tự do cũng có giá trị cho cuộc sống nhân bản và tâm linh. Có biết cố gắng từng ngày để ra khỏi chính mình và đến với người khác con người mới thực sự có tự do.
Cám ơn “bà Tàu” người hàng xóm của tôi đã cho tôi được cơ hội tìm kiếm một thứ tự do như thế.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét