Chu Thập
1/4/16
Tuần qua,
bên cạnh các vụ khủng bố làm rúng động cả thế giới, tôi đặc biệt chú ý đến 2 bản
tin nhỏ.

Các “đồng
chí” của ông mà còn bật cười, huống chi là tôi. Lâu nay tôi vẫn nghi ngờ về
trình độ trí thức của ông y tá vườn vô bưng khi chỉ mới 12 tuổi này. Vậy mà nhờ
“học tại chức” ông lấy được cả bằng cử nhân và cao học về luật hay quản trị gì
đó. Không hiểu sao cứ mỗi lần nghe ông trả lời phỏng vấn với báo chí nước ngoài
thì trong tôi lại dấy lên mối nghi ngờ về trình độ học vấn của ông. Nhưng điều
tôi nghi ngờ hơn cả về ông thủ tướng này chính là sự thành thật của ông. Hoặc
là ông chẳng hiểu gì về những lời tuyên bố của mình hoặc ông là người trơ trẽn đến
độ vừa tuyên bố một điều vừa hành động ngược lại tức khắc sau đó. Có lẽ Anh Ba
Sàm, tức nhà báo mạng Nguyễn Hữu Vinh, người vừa bị ông Dũng ra lệnh bịt miệng
và cho vào nhà đá chỉ vì thực thi một trong những quyền cơ bản nhứt của con người
là được phát biểu ý kiến, hiểu được sự trí trá của ông hơn bất cứ người Việt
Nam nào.
Có lẽ tôi
hơi thiếu công bằng và khách quan khi nhận định về trình độ trí thức và đạo đức
của ông Nguyễn Tấn Dũng. Nay ông đã ngã ngựa. Tôi thấy mình cần xét lại cái
nhìn về ông. Phải chăng khi quyền lực đã tuột khỏi tầm tay, khi thói lưu manh
không còn hữu dụng nữa và nhứt là khi tuổi đời đã xế bóng, ông Dũng đã nhìn lại
và hiểu được thế nào là tử tế và phải sống tử tế? Có điều tôi lấy làm tiếc là nếu hiểu thế nào là “tử
tế”, tại sao ông Dũng không sống tử tế khi còn quyền trong tay để khi về vườn nếu có lên giọng
giảng dạy thì không bị các “đồng chí” cười vào mặt. Chẳng lẽ ông Dũng chỉ có thể
sống tử tế khi không còn quyền lực? Hay thực tế hơn, ông muốn người khác tử tế
để đừng lôi ông ra tòa về những “thành tích” hại dân hại nước của ông? Như vậy
ông Dũng có thực sự hiểu “tử tế” là gì không?
Lâu nay có
thể ông Dũng đã để cho giây thần kinh và ý thức về sự tử tế hoàn toàn tê liệt.
Nếu ông thật sự muốn lên lớp khuyên dạy về sự tử tế và muốn sống tử tế nhưng lại
chẳng hiểu gì về sự tử tế, tôi đề nghị ông nên tìm một mẫu người tử tế cụ thể
nào đó, chớ không phải cái thây chết trong lăng Ba Đình, để tập sống theo. Tôi
nghĩ đến Đức Phanxicô, nhà lãnh đạo của trên một tỷ tín đồ công giáo trên khắp
thế giới. Đây là nội dung của bản tin nhỏ thứ hai trong tuần qua mà tôi cũng đã
đặc biệt chú ý tới.
Theo Đài
BBC, mới đây viện thăm dò dư luận Win/Gallup International đã thực hiện một cuộc
khảo sát về cái nhìn của nhiều người trên khắp thế giới đối với Đức Phanxicô. Cuộc thăm dò đã được thực hiện với
trên 1000 người rải rác tại 64 quốc gia.
Kết quả cuộc thăm dò cho thấy sau 3 năm ở cương vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo,
Đức Phanxicô không những được người công giáo, mà hơn một nửa số người theo đạo
Tin Lành, người Do Thái và ngay cả người ngoài Kitô giáo đều dành cho ngài nhiều mỹ cảm hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào trên thế giới hiện
nay.
Theo Đài
BBC, chủ tịch của viện thăm dò WIN/Gallup International, ông Jean Marc Leger
cho biết: “Giáo hoàng Phanxicô là nhà
lãnh đạo đã vượt lên trên cả chính tôn giáo của mình. Nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy một đa số rất lớn công dân trên thế giới thuộc các tôn giáo khác nhau
và ở những vùng đất khác nhau đều có một cái nhìn tốt về Đức giáo hoàng” (x. BBC, Chương trình Việt ngữ 24/3/2016).
Bản tin trên
đây mách bảo với tôi rằng con người thời đại, dù có khô đạo đến đâu, vẫn trân
quý và xem sự tử tế như một tư cách quan trọng mà bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng
phải có. Thật ra không chỉ các nhà lãnh đạo, mà bất cứ con người nào cũng chỉ
được đánh giá dựa theo sự tử tế của người đó đối với người đồng loại.
Là một người
công giáo, nhưng tôi chưa bao giờ “tôn thờ” bất cứ vị giáo hoàng nào. Với tôi
giáo hoàng cũng chỉ là một con người như mọi người. Nhưng với riêng Đức Phanxicô
thì tôi vẫn luôn nhìn lên như một mẫu gương sống động và cụ thể trước mắt để học
biết thế nào là sống tử tế với người đồng loại. Dĩ nhiên, nhà lãnh đạo tối cao
nào của Giáo hội Công giáo cũng đều là một mẫu người tử tế cả. Có vị giáo hoàng
nào mà không rao giảng về tình thương, sự cảm thông và tha thứ. Nhưng trong khi
các vị tiền nhiệm của ngài thường xuất hiện như những triết gia, thần học gia
hay học giả uyên bác, thì Đức Phanxicô lại chọn thái độ khiêm tốn, cuộc sống
đơn giản, sự cảm thông...làm kim chỉ nam cho cuộc sống và lời rao giảng của
ngài. Một trong những cử chỉ của ngài mà tôi cho là biểu trưng của sự tử tế là
việc ngài quỳ gối rửa chân và hôn chân trong nghi lễ của ngày mà Giáo hội Công
giáo gọi là “Thứ Năm Tuần Thánh”. Đặc biệt năm nay ngài đã rửa và hôn chân
không phải của những người được chọn lựa và xem đó như một vinh dự, mà là những
người tỵ nạn ngoài Kitô Giáo. Họ là đại diện của những thành phần dễ bị quên
lãng nhứt trong xã hội hiện nay.
Hằng năm, cứ
đến mùa Lễ Phục Sinh, tôi vẫn luôn cố gắng đi tìm ý nghĩa của Phục Sinh đối với
cuộc sống tại thế của tôi. Là một tín hữu Kitô, tôi tuyên xưng rằng Chúa Giêsu
đã thực sự sống lại và trong niềm tin đó tôi cũng tin rằng con người cũng sẽ sống
mãi khi thế giới này qua đi. Nhưng nỗi khắc khoải khôn nguôi của tôi vẫn là: một
niềm tin như thế có mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống hiện nay của tôi không?
Và năm nay, tôi đã tìm ra được ý nghĩa đó khi chiêm ngắm cử chỉ rửa và hôn chân
của Đức Phanxicô.
Nhà lãnh đạo
của Giáo hội Công giáo đã lập lại cử chỉ của Chúa Giêsu trong bữa ăn cuối cùng
với các môn đệ trước khi bị bắt và đem đi đóng đinh. Với tôi, Phục Sinh không
chỉ diễn ra 3 ngày sau đó khi Chúa Giê Su sống lại và ra khỏi mồ, mà ngay chính
trong giây phút Ngài làm cử chỉ khiêm tốn và phục vụ ấy. Kể từ giây phút ấy, một
sức sống mới đã bừng dậy trong lòng các môn đệ của Ngài. Một cách nào đó mầm mống
của Phục Sinh đã bắt đầu bừng lên nơi các môn đệ. Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu
có lẽ sẽ vô nghĩa nếu không có cử chỉ ấy. Chính vì thế mà khi các tín hữu Kitô
tiên khởi đã họp nhau thành Giáo Hội, thì cử chỉ đặc trưng của họ chính là phục
vụ. Tựu trung, họ thâm tín rằng phục vụ và sống tử tế chính là tuyên xưng và để
cho sức sống của Chúa Giêsu phục sinh được tiếp diễn qua chính con người của họ.
Lịch sử của các bệnh viện tại các nước Tây Phương và hệ thống y tế hiện nay đã
chứng minh điều đó.
Thời Đế quốc
Lã Mã sau Công Nguyên đã chứng kiến nhiều thứ “ôn dịch”. Nhưng cũng chính trong
giai đoạn đó mà con số các tín hữu Kitô gia tăng. Sở dĩ có sự kiện ngược đời ấy
là vì, trong khi mọi người kể cả các y sĩ, bỏ trốn khỏi các đô thị, thì các tín
hữu Kitô đã quyết định ở lại để chăm sóc cho các bệnh nhân bất luận họ thuộc
tôn giáo nào. Sự kiện này đã khiến cho hoàng đế La Mã Julian (361-363) đã phải
thốt lên với một viên cận thần của ông: “Trong khi những tên Galilê ngoại đạo
(tức các tín hữu Ki Tô tiên khởi) không những chăm sóc cho người nghèo của họ,
mà còn cả những người nghèo của chúng ta, thì ai mà chẳng thấy rằng người của
chúng ta thiếu tinh thần phục vụ”.
Nhìn chung,
trong hàng bao thế kỷ qua, đi tiên phong trong việc phục vụ người nghèo, chăm
sóc các bệnh nhân, nhứt là những thứ bệnh nan y như lao, phung cùi và liệt
kháng...vẫn là các tu sĩ công giáo và những người đã được thúc đẩy vì lý tưởng phục
vụ của Kitô giáo.
Ngày nay, muốn
hay không, có lẽ cũng khó chối bỏ được tinh thần phục vụ hy sinh nơi những người
tin và sống tinh thần Phục Sinh. Chẳng hạn năm 2014, khi bùng nổ dịch bệnh
Ebola tại Phi Châu, một giáo sư tự xưng là vô thần như ông Brian Palmer hiện
đang giảng dạy tại Đại học Uppsala, Thụy Điển cũng đành phải thú nhận rằng phần
lớn những người dấn thân phục vụ các bệnh nhân vẫn là các bác sĩ thiện nguyện
trong các tổ chức từ thiện của Kitô giáo.
Thật ra, không
riêng Kitô giáo, mà dường như bất cứ tôn giáo nào cũng xem từ thiện, phục vụ,
hy sinh và sống tử tế với người đồng loại như cốt lõi của đạo mình. Nhưng đối với
các tín hữu Kitô, phục vụ và sống tử tế được xem như thể hiện của chính sức sống
Phục Sinh. Với họ, tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh trước hết có nghĩa là phục vụ,
hy sinh, nghĩa là sống tử tế với người đồng loại của mình.
Phục Sinh
luôn hàm ý sự đổi mới. Sống tự nó là đổi mới. Triết gia Hy Lạp Parmenides (510 trước Công Nguyên) đã từng nói rằng “không ai tắm trong cùng một dòng
sông đến hai lần”. Ông ngụ ý rằng cuộc sống không ngừng thay đổi. Cơ thể con
người luôn thay da đổi thịt. Cuộc sống tinh thần cũng vậy. Cần phải đổi mới
không ngừng. Tôn Trung Sơn (1866-1925), nhà cách mạng tiên phong vĩ đại của Trung Quốc khi mới 17 tuổi
đã cảm hứng từ câu “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” trong sách Đại Học
để lấy hiệu là “Nhật Tân”. Cụ Phan Bội Châu (1867-1940), trong bài thơ “Chúc Tết Thanh Niên” cũng kết luận: “Chữ rằng: nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân”. Các nhà cách mạng lớn của nhân loại đều
xem sự đổi mới bản thân từng ngày là điều quan trọng.
Tôi cũng suy
nghĩ về sự Phục Sinh theo chiều hướng đổi mới ấy. Và đổi mới thực sự chính là
quyết tâm sống tử tế hàng ngày với mọi người. Trong ý nghĩa ấy, tôi thấy cần phải mỗi ngày lập lại với chính
mình câu “chúc mừng Phục Sinh” để tự
nhắc nhở mình phải luôn cư xử tử tế mỗi ngày và với mọi người, nhứt là những
người thân quen gần gũi với mình trong gia đình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét