Chu Thập
Tháng Tư 2010
Tháng Tư 2010
Một trong những
kỷ niệm “buồn cười” nhứt của tôi
trong những năm tháng dài lê thê dưới chế độ cộng sản là việc tôi “tung hô” ông Hồ Chí Minh: “buồn” đến xé nát ruột gan, nhưng cũng “cười” ra nước mắt!
Số là sau 75, tôi
có tham gia đội bóng đá của khóm phường nơi tôi sinh sống. Ngoài mục đích tránh
bị dòm ngó và theo dõi như một thành phần “vô sản xuất”, tôi cũng muốn bon chen
để gọi là “cải thiện” cuộc sống. Vào thời đó, các vận động viên thể thao tương
đối còn được chế độ cộng sản trọng dụng. Cho nên, những ai có sinh hoạt thể
thao cách này hay cách khác đều được cấp phiếu mỗi tháng mua được 21 ký gạo và
một ký đường để gọi là “bồi dưỡng”. Ngoài ra, mấy ông “bầu” và cán bộ khóm phường
cũng ưu đãi các vận động viên thể thao. Cứ mỗi lần đạt được một chiến thắng, cả
đội banh đều được “chiêu đãi” một cách tận tình. Tôi vẫn còn nhớ mãi cái món
tôm “hỏa tiễn” mà tôi được ăn thỏa
thích tại một nhà hàng tương đối còn sang trọng trong thành phố. Vào thời đó,
tôm Việt nam nổi tiếng là dài nhứt thế giới: cái đầu thì ở Việt nam mà cái mình
thì ở tận bên…Liên xô! Được ăn nguyên một
con tôm lăn bột chiên có đầy đủ “đầu mình và tứ chi” quả là một niềm vui “vĩ đại”
trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa.
Người Tây phương
nói “bụng đói không có tai”. Tôi thấy
điều này hoàn toàn đúng với tôi, mặc dù tôi chưa trải qua những năm tháng tù tội
trong nhà tù nhỏ của xã hội chủ nghĩa. Những bữa được bồi dưỡng như thế khiến
cho tôi thấy “ham” thể thao hơn. Do đó, tôi chẳng cần phải tính toán hơn thiệt,
suốt ngày lao vào thể thao để cứ tưởng vừa giải sầu vừa rèn luyện thân thể lại
vừa có cái ăn hơn người khác. Thực tế hoàn toàn trái ngược. Tôi bị gài vào một
thứ chiến dịch chỉ để tuyên truyền cho chế độ mới nhằm làm lung lạc sức đối
kháng của giới trẻ. Cứ tra chân vào giày đá banh thì người ta sẽ quên hết mọi sự.
Cứ vào sân vận động để hò hét thì chẳng còn muốn nghĩ đến thế sự.
“Một tinh thần lành mạnh trong một thân xác
tráng kiện” (mens sana in corpore sano): từ ngàn xưa, người La mã đã bảo
như thế. Thể thao giúp cho con người được tráng kiện trong thể xác lẫn tinh thần.
Thế nhưng trong chế độ cộng sản, tôi nghiệm ra được một điều: thể thao chỉ còn
là một thứ thuốc phiện ru ngủ và làm cho con người thêm bạc nhược mà thôi! Càng
lăn xả vào sinh hoạt thể thao, tôi càng cảm thấy rã rời thêm. Trước 75, ăn uống
đầy đủ, mỗi khi xung trận, tôi thường “bao sân”: chỗ nào có banh là tôi chạy đến.
Sau 75, trên sân cỏ, banh lại chạy theo tôi. Cũng dễ hiểu thôi, bụng lúc nào
cũng đói, thân thể lại thiếu thứ “vàng”
trong chế độ là đường thì lấy đâu thể lực để mà chạy, chứ đừng nói tới chuyện
đưa chân ra đá. Vậy mà “chó ngáp phải ruồi” thế nào, trong một cuộc tranh giải
giữa 3 phường của thành phố, đội của tôi lại biến thành…“vô địch”! Trong thế giới
những thằng đói đến độ bò càng, thằng nào còn lê lết được đôi chân thì đương
nhiên phải vô địch thôi.
Và đây là kỷ niệm
“buồn đến cười ra nước mắt” của tôi:
trong nghi thức trao giải vô địch, với tư cách là thủ quân của đội, tôi được
ban tổ chức trao cho một bức ảnh của “Bác
Hồ” và bảo tôi đưa cao lên để chụp ảnh kỷ niệm. Tôi không rõ tấm hình đó hiện
đang được lưu giữ ở đâu. Nhưng chắc chắn, trông gương mặt của tôi “thảm bại” lắm! Tôi chỉ muốn làm con đà
điểu rúc đầu vào cát để tránh không phải nghe lùng bùng trong tai bài hát “như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”
và để che dấu cái bộ mặt “ốt dột” của
tôi. “Từ đó, trong tôi bừng lên” một
sự chua xót không thể nào tả được. Suốt những ngày sau đó, tôi thấy như “nhân
cách” của mình bị hạ giảm.
Sau biến cố này,
tôi tuyên bố “treo giày”, giải nghệ và vĩnh viễn từ giã sân cỏ. Cứ mỗi lần nhìn
sân cỏ là tôi lại bị ám ảnh bởi cái bức chân dung của một người mà lúc đó, người
dân đã bắt đầu cho “lộng kiếng”. Có
lúc tôi bị dằn vặt như thể mình là một “tội phạm” vì đã tung hô một tên tội đồ
của dân tộc.
Cuộc cải cách ruộng
đất tại miền Bắc, cuộc di cư năm 1954, cuộc chiến “thần thánh” chống Mỹ cứu nước trong đó hàng triệu người Việt nam bị
sát tế trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa, Tết Mậu thân năm 1968, những vụ pháo kích
bằng hỏa tiễn 122 ly bừa bãi vào khu dân cư, những vụ đặt bom Plastic vô tội vạ,
những người dân vô tội bị banh thây xé thịt trong những vụ “đắp mô” trên mọi trục
lộ giao thông, những cái đầu bị chặt lìa khỏi thân xác trong những thôn bên cạnh
làng tôi, cảnh khốn khổ tù đày sau 1975,
những tấm thân đói khổ và bệnh tật trên kinh tế mới, những xác người trôi dạt
vào bờ biển hay chìm sâu trong đại dương trong các cuộc vượt biên, hình ảnh các
sĩ quan hay viên chức Việt nam cộng hòa quằn quại trong các trại lao động khổ
sai…tôi không cần phải đọc cuốn “Le Livre
Noir du Communisme” (hắc thư của chủ nghĩa cộng sản) do một số sử gia cựu đảng
viên Cộng sản tại Pháp biên soạn hồi năm 1997 để thấy được những tội ác của chủ
nghĩa Cộng sản mà ông Hồ Chí Minh đã suốt một đời quảng bá và xây dựng tại Việt
nam.
Vào thời điểm
tôi bị buộc phải đưa cao bức chân dung của ông lên và “tung hô”, với tôi, ông là một trong những tay đồ tể của thế giới Cộng
sản. Có ai chứng minh cho tôi được rằng có lãnh tụ Cộng sản nào mà không là một
đồ tể khát máu không?
Nhưng với riêng
tôi, Hồ Chí Minh không chỉ là một tên đồ tể khát máu. Ông còn là tận cùng của sự
vô luân. Đây là cảm nhận riêng của tôi kể từ khi biết được rằng Trần Dân Tiên,
tác giả của cuốn sách “Những Mẩu Chuyện về
Đời Hoạt động của Hồ Chủ Tịch” chính là ông.
Tôi có đứa cháu
trai có cha là sĩ quan Việt nam cộng hòa bị tù lao động khổ sai. Thỉnh thoảng
thằng bé 5 tuổi cũng biết trút bỏ cơn giận lên người mà nó gọi là “thằng Bác Hồ”. Kiểu nói “mất dạy” ấy của
trẻ thơ làm cho tôi liên tưởng đến hai tiếng “Chí Minh” được nói lái theo kiểu của người miền Nam. “Thằng” hay “Mi” thì cũng thế thôi. Một khi sự đểu giả đã đạt đến tột cùng thì
con người chẳng còn một chút nhân cách nào nữa.
Ngày nay, hồi ký
đã trở thành một thể loại văn chương rất thịnh hành. Ngoại trừ thánh Augustino,
tác giả của cuốn “Những Lời Tự thú” nổi
tiếng vào thế kỷ thứ 5, hầu như tác giả viết hồi ký nào ngày nay cũng, một cách
nào đó, “tự đề cao” hay biện minh cho những hành động sai trái của mình. Các
tay đồ tể trong lịch sử nhân loại, trái lại, không tự mình viết hồi ký. Ít nhứt
họ còn có một chút liêm sỉ để ra lệnh cho người khác viết về mình. Họ buộc người
khác “sùng bái” mình, nhưng ít nhứt không vô liêm sĩ đến độ tự xưng là người “đạo
đức”.
Với quyển “Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt động của Hồ Chủ
Tịch”, Hồ Chí Minh = Trần Dân Tiên đã đạt đến tận cùng của sự đểu giả và vô
đạo, khi dùng tên của một người khác để viết tiểu sử và tự đề cao mình. Trong lịch
sử nhân loại, chắc chắn chưa từng có và sẽ chẳng bao giờ có một người nào dám vỗ
ngực tự xưng là “Bác khiêm tốn nhường ấy”.
Khiêm tốn hay đạo đức nói chung là các “nhân đức” mà con người sẽ đánh mất
ngay khi tự nhận có nó. Tuyên bố “tôi là người khiêm tốn” chính là công bố sự
kiêu ngạo của mình. Tự nhận mình là “người đạo đức” là nói lên sự vô đạo của
mình.
Hồ Chí Minh
chính là hiện thân của thứ “đạo đức cách
mạng” hay “con người mới xã hội chủ
nghĩa” mà những người Cộng sản không ngừng rêu rao. Một người Cộng sản gộc
là ông Nguyễn Khắc Viện, một bác sĩ từng được đào tạo tại Pháp, đã có lần giải
thích về việc đổi tên Sài Gòn thành thành phố Hồ chí Minh. Ông nói rằng: “Sài Gòn gợi lên đồi trụy, xấu xa. Còn Hồ Chí
Minh chỉ những gì là thanh sạch, lành mạnh, cao đẹp và đạo đức.” Bây giờ,
sau 35 năm đổi tên, ai ai cũng có thể nhìn thấy “Hòn Ngọc Viễn Đông” trở nên đồi
trụy, xấu xa đến mức nào.
Những người cộng
sản vẫn luôn tự hào mình là mẫu mực của đạo đức, tức con người mới xã hội chủ
nghĩa. Năm 1924, Leo Trotsky đã viết như sau: “Con người sẽ trở nên vô cùng mạnh mẽ, khôn ngoan và tinh tế hơn; thân
thể họ trở nên hài hòa hơn, những cử động của họ nhịp nhàng hơn, tiếng nói của
họ có nhạc điệu hơn…Con người mẫu mực trung bình sẽ đạt đến đỉnh cao của một
Aristoteles, một Goethe hay một Marx. Và trên tầm mức trung bình ấy sẽ có những
đỉnh cao vươn lên.” (x. Philip Yancy, Finding God in Unexpected Places” trg
127)
Con người đạo đức
hay người mới xã hội chủ nghĩa như được Trotsky loan báo trên đây đã xuất hiện
bằng xương bằng thịt trong những người mà tác giả Trần Duy thời Nhân Văn Giai
Phẩm gọi là “những người khổng lồ”. “Rốt cục, những con người “không phải là người”
đó chỉ tàn phá và gieo tang tóc khắp mọi nơi, không có khả năng kiến thiết và
xây đắp hạnh phúc cho nhân loại.” (x. Trăm Hoa Đua Nở trên Đất Bắc, Mặt trận
bảo vệ Tự do Văn hóa, Sài gòn 1959, trg. 306)
Những tàn phá của
chủ nghĩa Cộng sản trong hơn 70 năm tại Liên Xô, hơn 50 năm tại Đông Âu, 60 năm
tại Trung Quốc và trên 60 năm qua tại Việt nam đã chứng tỏ rằng những con người
mới xã hội chủ nghĩa ấy không còn là “người” nữa hay đúng hơn là những con người
không muốn làm “người” nữa. Hồ Chí Minh, với tận cùng của sự vô liêm sỉ được
nâng lên hàng “đạo đức” và ngày nay được những người cộng sản Việt nam đề ra như
mẫu mực để học tập và noi theo, là mô hình “nguyên bản” của những con người
không còn là người ấy. Khi độc ác, dối trá, vô liêm sỉ, đểu giả …trở thành chuẩn
mực đạo đức, thì chắc chắn chất “nhân bản” đích thực không thể nào tồn tại.
Cứ nhìn vào những
lỗ hổng đạo đức mà chủ nghĩa Cộng sản đã để lại tại cựu Liên Xô, Đông Âu cũng đủ
để thấy thế nào là những tàn phá mà những “người
khổng lồ không có trái tim” đã gây ra cho nhân loại. Hãy nhìn vào tình trạng
xã hội Việt nam hiện nay để thấy được những “con người mới” mà con người tự
xưng là “cha già dân tộc” đã trồng
trên quê hương Việt nam.
Một con người thật
sự là người luôn ý thức về bản chất bất toàn và giới hạn của mình, nhưng vẫn cố
gắng vươn lên để sống tốt đẹp hơn. Thời trung học, tôi vẫn cố gắng ghi nhớ và
tâm niệm câu nói của nhà toán học kiêm triết gia Pháp Blaise Pascal vào thế kỷ
thứ 17: “Con người không phải là thiên thần
cũng không phải là thú vật. Ai muốn làm thiên thần đều trở thành thú vật.”
Cũng như một
trong những nhà tư tưởng đầu tiên của Kitô giáo là thánh Phaolô, khi nhìn sâu
vào những bất toàn và yếu đuối của mình, đã thốt lên: “Điều thiện tôi muốn thì tôi không làm. Còn điều ác tôi không muốn, tôi
lại cứ làm” (Thư gởi giáo đoàn Roma 7, 19), mỗi ngày tôi cũng trải qua cuộc
chiến nội tâm ấy. Có lúc tôi chiến thắng, nhưng đa phần tôi ngã gục. Nhưng tôi
biết rằng chính vì còn là con người mà tôi phải không ngừng chiến đấu. Và đó
chính là vẻ đẹp và sự cao cả của con người. Thú vật không có ý thức về đạo đức.
Thú vật chỉ hành động theo bản năng. Thiên thần cũng chẳng phải chiến đấu vì
không bị cám dỗ. Chỉ có con người mới nhận ra nhân tính của mình ngay trong sự
thấp hèn và vấp ngã của mình.
Tôi muốn được
mãi mãi làm một con người như thế. Trong cuộc chiến đấu mỗi ngày, tôi cũng đi
tìm cho mình những mẫu mực như thế. Tôi không màng đến chuyện ông Hồ Chí Minh
có vợ, có con rơi con rớt hay có năm thê bảy thiếp. Tôi cũng có thể tha thứ vì
vô số tội ác mà ông đã gây ra cho dân tộc. Sai lầm là chuyện bình thường của
con người. Nhưng tôi không thể chấp nhận tung hô một người tìm cách che đậy, khỏa
lấp những yếu đuối và tội ác của mình bằng cái vỏ đạo đức để lừa bịp người
khác.
Tôi không phải
là thiên thần và tôi cũng không muốn làm thiên thần trong cuộc sống tại thế
này, bởi vì làm như thế tôi sẽ trở thành “thú vật” như đã từng xảy ra trong
thiên đàng Xã hội chủ nghĩa.
Chu Thập, Tháng Tư 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét