Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

Ngày tạ ơn



Chu Thập
27.3.15

Tháng Ba, tháng Tư và ngày 30 tháng 4 hàng năm được người Việt tỵ nạn cộng sản tưởng niệm dưới nhiều tên gọi khác nhau. Kể từ sau khi Việt Cộng cưỡng chiếm thành phố Ban Mê Thuột dẫn đến cuộc di tản từ cao nguyên Trung phần, tháng Ba được nhiều chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa nhớ đến như “tháng 3 gẫy súng”. Kế đó, đối với toàn dân Miền Nam là cả một “tháng Tư Đen” mà cao điểm là ngày Quốc hận 30 tháng 4. Nhìn chung, đối với tập thể người Việt tỵ nạn, bao lâu còn chế độ cộng sản và bao lâu còn sống là bấy lâu còn một ngày Quốc hận.
Dường như muốn nhắc khéo cho người Việt tỵ nạn tại Úc Đại Lợi về ngày Quốc hận chăng mà “đồng chí Ếch” của cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thực hiện một chuyến Úc du vào trung tuần tháng Ba vừa qua. Chỉ cần nhìn thấy bản mặt vênh váo của tên gian ác vào bưng năm 12 tuổi, rồi từ từ leo lên hết các bậc thang của côn đồ và đểu cáng...tôi đã thấy uất hận rồi. Lâu nay, tôi vẫn quyết tâm tu thân tích đức, dẹp bỏ mọi hận thù ra khỏi tâm hồn để có được thân tâm an bình. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Hễ cứ nhìn thấy gương mặt ngu ngốc, gian ác và đểu giả của bất cứ tên cộng sản nào thì máu tôi lại cứ sôi sục. 30 tháng 4 năm 1975, những người Bắc di cư năm 1954 đã phải thốt lên rằng chạy trốn mãi mà vẫn không thoát khỏi mấy ông cộng sản. Nay sau 40 năm trốn chạy, tôi có cảm tưởng như cái bóng ma cộng sản vẫn còn dùng sự “thù hận” để truy đuổi mình. Đối với cá nhân tôi, chiến bại thê thảm nhứt trong cuộc đời là mình cứ phải nuôi dưỡng sự thù hận đối với người cộng sản. Nhưng chả lẽ mình lại mắc vào cái bẫy hận thù của người cộng sản và thua cuộc mãi sao?
Không biết có phải là một lối thoát cho nhiều người Việt tỵ nạn trong đó có tôi không mà, dạo cuối năm vừa qua, Thượng Nghị Viện của Gia Nã Đại đã chấp thuận một đạo luật do một Thượng nghị sĩ gốc Việt đệ trình để gọi ngày 30 tháng 4 hàng năm của người Việt tỵ nạn tại nước này là “Ngày Hành Trình Tìm Tự Do” (Journey to Freedom Day).
Nghe đâu, Thượng nghị sĩ gốc Việt tại Gia Nã Đại là ông Ngô Thanh Hải đã đệ trình dự luật nguyên thủy có tên là “Black April Day” (Ngày Tháng Tư Đen) để đánh dấu ngày đau buồn nhứt trong lịch sử Việt Nam. Nhưng trong phiên họp để biểu quyết dự luật, đương kim Thủ tướng Gia Nã Đại Stephen Harper đã đề nghị đổi tên “Black April Day” thành “Journey to Freedom Day”.
Có hành trình tiến về tự do là bởi có áp bức, nô lệ, tù đày. Người Việt tỵ nạn nào có thể quên được những năm tháng đọa đày trên quê hương mình. “Tháng Tư Đen” không thể nào  bị xóa khỏi ký ức và tâm tưởng của bất cứ người Việt tỵ nạn nào như tôi. Nhưng dưới cái nhìn tích cực hơn thì quả thực bóng tối của ngày 30 tháng 4 đã phải lùi lại để mở ra chân trời tươi sáng của tự do và khang an hạnh phúc cho không biết bao nhiêu người Việt tỵ nạn.
Dự thảo luật “Ngày Hành Trình Tìm Tự Do” được Thượng Nghị Viện Gia Nã Đại thông qua và hiện đang được Hạ Viện nước ngày thảo luận, khiến tôi liên tưởng đến Ngày Lễ Tạ Ơn của Hoa Kỳ. Ngày lễ này, nếu được truy nguyên đến ngọn nguồn, không thể không nhắc đến sự kiện đã có những người Anh trốn chạy khỏi đất nước nơi họ bị bách hại vì tôn giáo để đi tìm tự do. Ngoài mùa màng tốt đẹp và sự ân cần đón tiếp của những “người Mỹ đầu tiên”, tức các thổ dân, những người tỵ nạn đầu tiên đặt chân đến Mỹ Quốc này đã dâng lời tạ ơn vì tự do mà họ đã hưởng được trên xứ người.
Tự do quả là món quà quý giá nhứt đối với bất cứ người tỵ nạn nào. Chúng ta đã có thể đánh đổi mạng sống để có được tự do. Đó là lý do chính đáng nhứt để một người tỵ nạn như tôi lúc nào cũng cố gắng sống tâm tình biết ơn và tri ơn đối với đất nước và dân tộc đã mở rộng vòng tay để đón nhận và cưu mang mình.
Với riêng Úc Đại Lợi, tôi lại thấy càng có lý do hơn để bày tỏ lòng biết ơn, đặc biệt khi sự qua đi của cố Thủ tướng Malcolm Fraser lại trùng vào những ngày người Việt tỵ nạn chuẩn bị tưởng niệm 40 năm Quốc hận.
Vị thủ tướng thứ 22 của Úc Đại Lợi này, trong suốt 4 nhiệm kỳ từ năm 1975 đến năm 1983, đã đạt được rất nhiều thành tích. Nhưng nổi bật nhứt có lẽ vẫn là quyết định mở rộng vòng tay nhân ái để đón nhận người tỵ nạn Việt Nam. Từ năm 1975 đến năm 1982, dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Fraser, Úc Đại Lợi đã đón nhận 200 ngàn người tỵ nạn từ các nước Á Châu, trong số này đông nhứt là người Việt Nam với 56 ngàn người.
Thay đổi chính sách di trú của Úc Đại Lợi và mở rộng vòng tay để đón nhận người tỵ nạn, Thủ tướng Fraser đã nhìn nhận: “Một trong những lý do khiến cho việc đón nhận người Việt tỵ nạn thành công trong hai thập niên 1970 và 1980 là các thuyền nhân và những người tỵ nạn khác từ các nước Đông Dương đều được nồng nhiệt đón nhận và giúp đỡ tận tình”.
Có lẽ không ai đánh giá đúng đắn hơn Bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến, nguyên chủ tịch cộng đồng người Việt quốc gia Liên bang,  về chính sách đón nhận người Việt tỵ nạn của cố Thủ tướng Fraser. Trong một bài diễn văn đọc năm 2011, nhân dịp kỷ niệm 30 năm định cư tại Úc, Bác sĩ Tiến nói: “Tôi thật may mắn được sống trong xứ sở kỳ diệu này. Với tôi và với những người tỵ nạn Đông Dương khác, Thủ tướng Malcolm Fraser và hai vị tổng trưởng di trú trong giai đoạn đó là ông Michael McKellar và ông Ian McPhee thật sự là những vị anh hùng đã đảo ngược chính sách của ông (thủ tướng) Whitlam và cho chúng tôi có được cơ hội tái định cư tại Úc Đại Lợi” (x.Sydney Morning Herald 22/3/2015).
Ca ngợi những thành tích của cố Thủ tướng Fraser, Bác sĩ Tiến còn nói: “Trong tất cả các vị thủ tướng Úc, ông Malcolm Fraser là một người vĩ đại, nếu không muốn nói là vĩ đại nhứt, trong lãnh vực nhân quyền, cảm thông và công bình xã hội. Những gì ông làm được, chưa có vị thủ tướng nào trước đó đã làm được. Không ai có thể sánh với ông trong những lãnh vực như quyền sở hữu đất đai của người thổ dân, lập trường cứng rắn chống lại chế độ phân biệt chủng tộc (tại Nam Phi), xiển dương chủ trương đa văn hóa và cách riêng đón nhận người Việt tỵ nạn. Đối với chúng tôi, ông thực sự là một vị anh hùng. Ông đã nêu gương sáng cho chúng tôi về lòng cảm thông đối với người khác”.
Những lời nói chân thành trên đây của Bác sĩ Tiến có lẽ đã nói lên được tâm tình biết ơn của người Việt tỵ nạn đối với riêng cố thủ tướng Fraser và Úc Đại Lợi nói chung.
Trong cuộc “hành trình tìm về tự do”, thành quả lớn nhứt của người Việt tỵ nạn tại các nước Tây Phương, không hẳn chỉ là kinh tế và học vấn, mà chính là xây dựng được cuộc sống tự do và một trong những thể hiện cao cả nhứt của tự do chính là sống xứng với phẩm giá con người và như Bác sĩ Tiến đã nói, noi gương Thủ tướng Fraser để bày tỏ “lòng cảm thông đối với người khác”. Dường như cố Thủ tướng Fraser đã có lần nhắn nhủ người Việt tỵ nạn tại Úc: “Hãy cố gắng làm những người Úc tốt”. Người Úc tốt như ông đã chứng minh, chính là luôn biết đối xử tử tế với người khác. Ngôi trường xã hội chủ nghĩa hoặc những nơi thường được mệnh danh một cách mỉa mai là “đại học máu” chỉ làm thui chột nhân cách, nhận chìm con người trong hố sâu của đồi bại. Trái lại, trong những đất nước mà cuộc hành trình đi tìm tự do đã đưa dẫn người Việt tỵ nạn đến, họ đã không chỉ hưởng được tự do theo đúng nghĩa của nó, mà còn trưởng thành hơn trong trường học làm người để biết cư xử tốt với người đồng loại của mình.
Có sự khác biệt thật sự giữa nhân cách của một người Việt tỵ nạn biết sống tâm tình biết ơn và một người cộng sản “vô ơn”. Tôi đọc được ý tưởng này qua bài viết có tựa đề “Viết trên giường bệnh” của người viết tạp ghi nổi tiếng Huy Phương. Tác giả kể lại chuyện một “giáo sư có thế giá” ở Việt Nam là ông Nguyễn Huệ Chi đến bệnh viện để thăm một kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” nổi tiếng là ông Lê Hiếu Đằng. Ông này đang thở không ra hơi trên giường bệnh. Vậy mà ông Nguyễn Huệ Chi lại mô tả “dù ốm đau, đôi mắt tác giả “viết trên giường bệnh” vẫn “ngời lên cái khát vọng tha thiết về tương lai dân chủ hóa cho đất nước”. Tác giả Huy Phương cho rằng đây là “những lời “vái” nhau mà không biết ngượng của những người có “chí lớn”, “yêu nước”... Người ta nói những người cộng sản thường thích nói phét, quả không sai”.
Tác giả viết tạp ghi Huy Phương đã ghi lại một kinh nghiệm mà hầu như khi nằm trên giường bệnh, người Việt tỵ nạn nào cũng đều có thể trải qua. Tác giả kể lại: “Trên cuộc đời này, không ai là người xấu cả, tất cả đều tử tế, đáng yêu thương mà chính màn sương mù chủ quan đã làm cho chúng ta có những cái nhìn thiên kiến lệch lạc...Tôi muốn ôm tất cả mọi người vào lòng, với tất cả tấm lòng thương yêu và xin họ thứ lỗi cho tôi về những điều gì tôi đã cư xử không phải đối với họ. Tôi nợ mọi người về một lời thăm hỏi” (Người Việt online 22/3/15).
35 năm qua, kể từ khi tìm đường, không phải để “cứu nước” như “ai đó”, mà chỉ để có được tự do để sống cho ra người tử tế, tôi cũng chỉ mong có được tâm tình yêu thương và cảm thông như tác giả Huy Phương trên đây. Trong những tâm tình cao đẹp tôi luôn cố gắng nuôi dưỡng, lòng biết ơn đối với đất nước đã cưu mang tôi và với mọi người tôi gặp gỡ hàng ngày vẫn là đức tính mà tôi cho là có sức làm cho nhân cách của tôi được phong phú hơn cả. Trong những bài học mà trong cuộc hành trình đi tìm tự do tôi vẫn cố gắng học hỏi chính là lòng cảm thông đối với mọi người. Lòng biết ơn dẫn đến sự cảm thông và sự cảm thông nuôi dưỡng lòng biết ơn. Do đó, 30 tháng 4 đối với tôi, dĩ nhiên trước hết vẫn mãi mãi là Ngày Quốc Hận. Mãi mãi tôi vẫn là và phải là một người chống cộng. Không phải chống cái chủ nghĩa vốn đã trở thành một thứ thây chết và đã bị quăng vào sọt rác của lịch sử, mà chính là chống lại tất cả những thứ đồi bại mà những tên cộng sản côn đồ trong đất nước tôi đang là hiện thân.
Mãi mãi là một Ngày Quốc Hận, nhưng 30 tháng 4 đối với riêng tôi cũng là một Ngày Tạ Ơn. Tạ ơn đất nước và những người đã đón nhận tôi và tạo điều kiện cho tôi được sống như một người tự do đích thực.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét