Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Tiếng Khóc Khô Không Lệ…


                                                                 
                                                                         Chu Thập
4/2010

Với năm năm “dài lê thê” trong địa ngục trần gian xã hội chủ nghĩa, tôi vướng vào một vài tật xấu, nhưng cũng học được đôi điều tốt.
Tuy không bị “ba cái lăng nhăng nó quấy ta”, tôi cũng không tránh khỏi những cái “ghiền” thường tình của mọi người dân xã hội chủ nghĩa.
Thuở nhỏ, đi theo lũ bạn chăn trâu, gặp lúc trời mưa lạnh, ngồi co ro trong chòi để chờ củ khoai mì lùi tro chín, tôi cũng thử “bập” một điếu thuốc vấn với lá chuối khô. Nhưng khói và mùi khét lẹt của loại thuốc lá ẩm mốc để lâu không thể nào chiêu dụ tôi được. Cũng có lúc tôi thử làm người lớn bằng cách kẹp điếu thuốc lá vào hai ngón tay và cố gắng bắt chước “phong cách” anh chị của mấy ông tài tử trong phim cao bồi vốn đã bắt đầu thịnh hành tại Việt nam từ thập niên 60. Nhưng chịu! Những thứ thuốc “sang” như Ruby Queen, Cotab, Bastos, rồi sau này, khi Mỹ đã ào ạt đem quân sang, những thứ “cao cấp” như Capstan, Salem, Pall Mall, Craven A, Malborough, Winston, Dunhill, 555…cũng chẳng có sức “thu hút” và “đốn ngã” tôi được.Tôi vẫn cứ thấy mình trơ trơ đối với chất nicotin.
Tôi cứ tưởng mình đã được “miễn dịch” đối với thuốc lá. Vậy mà, đùng một cái, khi tháng Tư 1975 đến, trời sập xuống trên quê hương Việt nam, tôi bỗng thấy mình biết hút thuốc một cách tự nhiên như một dân ghiền chính hiệu. Những loại thuốc lá “có cán” của “đế quốc” không còn nữa, mà nếu còn thì “đô” cũng quá nhẹ, không thể nào thỏa mãn được cơn ghiền nặng của tôi. Phải nặng và khét như Vàm Cỏ, Hoa Mai, Khánh Hòa…thì may ra tôi mới đoái hoài tới. Hai ngón tay trỏ và giữa của tôi như được “bọc vàng”. Chẳng còn thứ xà bông hay thuốc tẩy nào có thể xóa sạch được cái thành tích ấy.
Dĩ nhiên, thuốc lá luôn đi với cà phê và ngược lại. Trước 75, thỉnh thoảng tôi cũng biết thưởng thức cà phê sữa đá. Nhưng cà phê đen đặc quánh là thứ tôi chưa ngửi thấy được hương vị bao giờ. Vậy mà tháng Tư đen đến, mầu đen của cà phê bỗng trở thành mầu hấp dẫn nhứt. Được một ông bạn ở Ban Mê Thuột tiếp tế loại cà phê nguyên chất đều đều, cho nên tôi lúc nào cũng có “của ăn của để” và trở thành Mạnh Thường Quân của nhóm bạn ghiền đói rách.
Mỗi ngày tôi “kéo” không dưới hai gói thuốc và nhâm nhi không dưới năm cữ cà phê. Phải nói là “nhâm nhi”, bởi vì để thực sự thưởng thức loại cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc”, cần phải có thì giờ và biết chờ đợi. Mà sau 75, cái gì cũng thiếu, ngoại trừ thì giờ. Thì giờ quá nhiều, không biết “tiêu” vào đâu cho hết, cho nên tôi dành cho cà phê. Phải nói là để thực sự thưởng thức cà phê, cần phải ngồi nhìn ngắm những giọt đen tuyền rỉ qua cái phin. Đúng luật bất thành văn mà nhóm chúng tôi đặt ra là: phải có ít nhứt nửa giờ hay 15 phút mới pha được một ly cà phê. Chưa hết. Sau đó, phải dùng cái muỗng đánh cho cà phê lên bọt rồi mới thưởng thức.
Với ông bà ngày xưa thì “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Còn với nhóm bạn ghiền cà phê của tôi, thì miếng trầu được thay thế bằng cà phê. Và đây chính là điều “tốt” mà tôi đã học được dưới mái trường xã hội chủ nghĩa: cứ cà phê “vào” thì chuyện tiếu lâm lại “ra”.
Trước 75, tôi cũng thích “chuyện cấm đàn bà” của Đặng Trần Huân. Nhưng tiếu lâm trước 75 chỉ có tính cách “nghiệp dư” đối với tôi. Trong chế độ cộng sản, dường như người dân nào cũng trở thành một nhà “tiếu lâm chuyên nghiệp”. Cứ gặp nhau là “tuôn” ra chuyện tiếu lâm. Làm như câu chuyện sẽ nhạt nhẽo nếu người ta không có chuyện tiếu lâm để kể hay không nghe thêm một chuyện tiếu lâm.
Một anh bạn của tôi có một quyết tâm “độc đáo”: một ngày mà chưa tìm được một chuyện tiếu lâm thì coi như chưa “sống” trong “lòng dân tộc”.Thật ra, anh không phải là người sáng tác ra chuyện tiếu lâm. Anh nói rằng cuộc sống trong một xứ sở mà ngay đến quần áo cũng không có để mặc  mà vẫn tự hào là thiên đàng, thì đích thị là “một cuốn sách” đầy chuyện tiếu lâm rồi. Mà quả thật như vậy, cứ mỗi lần ra khỏi nhà, đi một vòng chợ trở về, anh đã có một câu chuyện tiếu lâm để kể.
Cà phê đắng cách mấy cũng trở thành ngọt, thuốc lá có khét cách mấy cũng trở thành thơm là nhờ những câu chuyện tiếu lâm được “dậm” vào buổi gặp gỡ hàng giờ chẳng biết làm gì ấy. Nói theo giọng “tiếu lâm” mà nhà thơ Hữu Loan đã nhắc đến trong một cuộc phỏng vấn dành cho một phóng viên của một tờ báo Việt ngữ hải ngoại hồi năm 1988, mọi sự đều nhờ “ơn Đảng ơn Bác” cả. “Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không. Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi. Ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được 2 hôm nay” (x. Việt luận 23/3/2010)
Có lẽ tôi cũng phải mượn cái giọng “tiếu lâm” trịnh trọng ấy để nói rằng nhờ “Ơn Đảng ơn Bác” hay “nhờ ơn cách mạng” mà  kho tàng chuyện tiếu lâm của tôi được thêm phong phú và nhờ chuyện tiếu lâm mà tôi đã có thể tồn tại trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa. Thật ra, không chỉ có tôi và nhiều người Việt nam, mà hầu như người dân nào sống dưới chế độ cộng sản cũng thế: các tù nhân trong cái nhà tù vĩ đại là chế độ cộng sản tồn tại được là nhờ chuyện tiếu lâm trong đó những người cộng sản là những nhân vật chính.
Tôi vẫn thích nhứt câu chuyện mà tôi tin rằng tất cả những ai đã từng nếm mùi xã hội chủ nghĩa cũng đều biết. Chủ nghĩa cộng sản không chỉ là một hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội. Nó thiết yếu là một ý thức hệ duy vật vô thần có chủ trương tiêu diệt tôn giáo. Giáo điều cơ bản nhứt của chủ nghĩa này vẫn là “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”. Hẳn phải thâm thúy lắm ai đó mới nghĩ ra câu chuyện tiếu lâm như sau: “Có một phụ nữ sùng đạo nọ vào nhà thờ cầu nguyện. Bà đến quỳ trước tượng Đức Mẹ và cầu xin: “Mấy ngày nay, nhà con chẳng còn gì để ăn. Xin Đức Mẹ cho con đúng 5 đồng để mua đủ cơm bánh cho ngày hôm nay.” Cứ sau một lần cầu nguyện, người đàn bà lại úp mặt trên bàn quỳ. Lúc đó, có hai anh công an đang thi hành nhiệm vụ theo dõi các sinh hoạt tôn giáo xung quanh nhà thờ. Quan sát cử chỉ của người đàn bà, hai anh liền nghĩ ra một kế tuyệt diệu để đánh đổ điều mà hai anh cho là “mê tín dị đoan”. Sau một lúc bàn bạc, hai anh mới “nhất trí” rút tiền riêng ra và cho vào phong bì, rồi nắn nót hàng chữ “Đảng cho”. Rón rén vào nhà thờ lúc người đàn bà đang úp mặt trên bàn quỳ, hai anh đặt phong bì trước mặt bà, rồi trở ra ngoài để theo dõi phản ứng của bà. Ngước mắt lên thấy có phong bì, người đàn bà khốn khổ vui mừng mở ra và đếm được đúng 3 đồng. Bà liền nhìn lên Đức Mẹ, đổi ngay nét mặt và nói như trách: “Lạy Đức Mẹ, lần sau Đức Mẹ có cho thì cho thẳng con, đừng cho qua Đảng, chúng nó lấy mất 2 đồng.”
Trong các câu chuyện tiếu lâm về Bác và Đảng, tôi nghĩ đây là câu chuyện thâm thúy nhứt. Năm 1982, đến Âu Châu, tình cờ đọc được một cuốn sách tiếu lâm của người dân Ukraine, một trong những cộng hòa của Liên Xô, tôi lại thấy có câu chuyện trên đây. Thì ra, đây có lẽ không phải là sáng tác của người Việt nam, mà là câu chuyện đã lan truyền khắp các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Dù sao, câu chuyện cũng đã thuộc về “kho tàng văn hóa tiếu lâm” chung của những người sống dưới chế độ cộng sản.
Tiếu lâm là cái xú báp để xả bớt những căng thẳng trong địa ngục trần gian. Tiếu lâm là một cái nhìn chọc thủng bức màn dày đặc ám khí để tìm một chút không khí “tự do”.Tiếu lâm là chút ánh sáng hy vọng trong bầu trời u ám buồn tủi. Tiếu lâm là “tiếng khóc khô không lệ” của những người vẫn còn muốn cố gắng sống như những con người trong một chế độ muốn biến họ thành súc vật.
Tôi chợt nhớ đến bài viết có tựa đề “Vừa Khóc Vừa Cười” của ông Nguyễn Mạnh Tường, một bậc khoa bảng tài ba đã bị cộng sản trù dập một cách dã man trong thời Nhân văn giai phẩm ngoài Bắc. Ông viết: “Phải khóc trên cái hiện thời để cười đón cái ngày mai. Dù sao người trí thức là người vừa khóc vừa cười. Khóc vì cái sai lầm phải chứng kiến hiện tại, cười vì vui với cái mới đang đến. Khóc vì đau khổ. Cười vì hy vọng. Khóc hôm nay để cười ngày mai. Trên quá trình biến đổi từ cái khóc đến cái cười diễn ra cuộc tranh đấu tư tưởng của người trí thức.
Người nào chỉ biết hoặc khóc thôi, hoặc cười thôi, không phải là người trí thức.” (Trích trong “Trăm Hoa Đua Nở trên Đất Bắc”, Mặt trận bảo vệ tự do văn hóa xuất bản, Sài Gòn 1959)
Tôi chưa có tư cách để tự xưng là một “người trí thức”. Nhưng ít nhứt, bao lâu còn biết khóc và biết cười, tôi thấy mình còn muốn sống như một con người, chứ không chịu làm một thứ súc vật để cười hay để khóc một cách “có điều kiện” như con chó của Pavlov hay như bầy thú trong “trang trại súc vật” của George Orwell.
Sau năm năm “trải nghiệm” thế nào là thiên đàng xã hội chủ nghĩa, tôi ghiền thuốc lá và cà phê, nhưng lại học được bài học để sống còn trong đọa đày thử thách: còn biết cười là còn cố gắng để sống lạc quan và tồn tại!
Năm 1997, tôi đã xem đi xem lại không biết bao nhiêu lần cuốn phim có tựa đề “La Vita è Bella” (đời vẫn đẹp) của đạo diễn kiêm diễn viên Ý Roberto Benigni. Cuốn phim ngoại quốc đạt 7 giải Oscar này kể lại câu chuyện của một người Ý gốc Do thái bị đưa vào một trại tập trung Đức quốc xã. Cùng bị giam với ông là đứa con trai nhỏ 3, 4 tuổi của ông. Trong suốt thời gian bị giam tù, người cha cố gắng “bảo vệ” sự hồn nhiên trong trắng của đứa con bằng cách nói với nó rằng hai cha con và không biết bao nhiêu người chung quanh khác đang tham gia vào một “trò chơi lớn” theo kiểu hướng đạo sinh. Phần thưởng dành cho những ai tuân thủ các luật của cuộc chơi sẽ là một chiếc xe tăng nhỏ. Chuyện phim dựa trên một phần sự thật: cha của ông Benigni đã từng bị giam hai năm trong một trại tập trung đức quốc xã tại Bergen Belsen, Đức. Cuốn phim tạo ra không biết bao nhiêu trận cười giữa những tiếng khóc: tất cả những trò độc ác dã man của Đức quốc xã đều được cậu bé nhìn như diễn tiến của một trò chơi lớn và nhờ thế hai cha con đã có thể tồn tại cho đến khi quân Đồng minh tiến vào giải phóng.
Trong cuốn sách “Man’s Search for Meaning” (con người đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống), được báo The New York Times xếp vào danh sách 10 tác phẩm có ảnh hưởng nhứt, tác giả Viktor Frankl, một chuyên gia tâm lý người Áo gốc Do thái bị giam trong trại tập trung Đức quốc xã, đã chứng minh rằng nếu có một lý do để hy vọng, con người có thể tồn tại trong những điều kiện nghiệt ngã nhứt của cuộc sống. Tác giả kể lại: một hôm, đang quằn quại và muốn bỏ cuộc trước sức nặng của “lao công khổ sai”, ông bỗng nghe được hai người bạn tù phía trước nói về những người vợ của họ. Tức khắc, ông cũng hình dung ra vợ ông. Ông nhớ lại từng nét trên khuôn mặt của vợ ông. Hình ảnh ấy mang lại một tia sáng hy vọng và sức mạnh để ông đứng lên tiếp tục sống qua kiếp đọa đày.
Tôi cũng tồn tại được trong kiếp đọa đày xã hội chủ nghĩa một phần do những tiếng cười “xã hội chủ nghĩa”. Ngày nay, tôi đã thoát được hai của nợ “thuốc lá” và “cà phê”, nhưng những tiếng cười và óc khôi hài mà tôi đã trau dồi được dưới mái trường xã hội chủ nghĩa vẫn còn đó. Cầm trên tay bất cứ cuốn “Reader’s Digest” nào, tôi phải mở ngay trang “laugh! It’s the best medicine” (cười là liều thuốc tốt nhứt). Mở báo Việt Luận, tôi cũng thường xem tức khắc trang “Lượm Lặt” của Tú Lắc để cười bể bụng với những phát biểu đầy chất“Minh Triết” của ông chủ tịch nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam hay những “sáo ngữ” của ông thủ tướng, của trung ương đảng, của báo chí “lề phải” ở Việt nam. Nhiều khi những lượm lặt có thật này còn khôi hài hơn những câu chuyện tiếu lâm tưởng tượng của những tay “chuyên nghiệp” nữa. 
Tôi thích cười, cười một mình hay chia sẻ với người khác. Cười để tin rằng cuộc đời không chỉ có “tháng Tư Đen”. Cười bởi vì trời có nắng có mưa và chắc chắn sau “cơn mưa thì trời lại sáng.” Cười bởi vì dù có đen tối đến đâu, đời vẫn đáng sống.




 Chu Thập, Tháng Tư 2010

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét