Chu Thập
Tháng Tư 2010
Cứ mỗi dạo “Tháng
Tư đen” trở về, tôi lại cảm nhận được “tốc độ” của thời gian. Tháng tư năm
1985, vừa thoát khỏi địa ngục trần gian được vài năm, tôi đã thốt lên: “Mới đó
mà đã 10 năm.” “Mới đó” tức là tính từ cái cột mốc 1975. Tháng Tư năm 1990, nhìn những chế độ Cộng
sản tại Đông Âu rơi rụng như những con cờ Domino, để rồi thấy cái chế độ độc
tài khát máu ấy vẫn còn cày xéo quê hương mình, tôi lại buồn bã than van: “Mới
đó mà đã 15 năm.” Rồi “mới ngày nào,” rưng rưng nghe nhạc sĩ Phan văn Hưng hát:
“Hai mươi năm, đàn trẻ thơ nay đã
lớn. Và chàng trai nay đã già …” Tháng Tư năm nay,
điệp khúc ấy lại trở về với một mốc điểm “rùng rợn” hơn: “Mới đó mà đã 35 năm”.
Ba mươi lăm năm
là nửa đời người đối với phần đông người Việt nam. Vậy mà tôi cứ cảm thấy nhanh
như một giấc mơ. Thời gian xem ra không công bình đối với mọi người. Với người
này, thời gian như thể ngừng trôi.Với người khác, nó lại phóng nước kiệu.
Sau 75, tôi
không bị tù đày như nhiều người. Phải nói là tôi đã được “may mắn” sống dưới chế
độ cộng sản đúng 5 năm để “sờ sẫm” được bộ mặt đích thực của chủ nghĩa cộng sản
mà mình chỉ biết qua sách vở. Nhưng 5 năm cũng đủ để cảm nhận được thế nào là
thời gian trong địa ngục trần gian. Lúc còn nhỏ, tôi thường được bà mẹ “đạo đức”
đưa chuyện hỏa ngục ra ngăm đe. Mẹ tôi kể chuyện hỏa ngục như thể bà đã từng sống
trong đó. Bà nói như đinh đóng cột rằng ở trong hỏa ngục có một cái đồng hồ lớn
mà giái chuông lúc nào cũng gõ: “đời đời,
đời đời…” Âm thanh rùng rợn ấy làm cho tôi lo sợ không ít mỗi khi nhìn lên
chiếc đồng hồ Odo treo trên cây cột giữa nhà.
Những tiếng “đời đời, đời đời” ấy đã thực sự vang
lên trong tai tôi khi chế độ cộng sản xây dựng địa ngục trần gian trên quê
hương. Những ngày của tháng Tư đen, người miền Nam nào mà không cảm thấy như “trời
sập”, mặt trời bị che khuất, một bức màn đen bao trùm lên đất nước và thời gian
như đứng lại. Chiến sự dồn dập mà ngày thì cứ như dài ra để như cố gắng…nhét
cho đủ tin tức trên báo chí vào.
Nghe những người
cộng sản “phán” rằng đồng hồ của Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ, tôi cứ nghĩ
là chuyện hoang đường hay tuyên truyền. Vậy mà thực tế lại “đúng” như thế! Đồng
hồ Thụy sĩ tại các nước tư bản chạy như bay. Còn đồng hồ Liên xô ở các nước cộng
sản cứ nhẩn nha mà gõ từng tiếng “đời đời,
đời đời” của địa ngục trần gian. Quả thật, thời gian của xã hội chủ nghĩa
sao mà lê thê thế! Chỉ có 5 năm xã hội chủ nghĩa mà tôi thấy như cả thế kỷ. Cái
đói triền miên khiến cho ngày nóng lại dài ra. Sự mất ngủ ban đêm vì bị “dựng đầu
dậy” để kiểm tra hộ khẩu làm cho đêm như bất tận. Những buổi đi “học tập” để
nghe những con vẹt thuyết trình về tính ưu việt của chủ nghĩa cộng sản và những
tràng pháo tay bắt buộc phải vỗ là những tra tấn khủng khiếp. Những cái loa
treo khắp hang cùng ngõ hẻm ngày đêm ra rả bên tai những điệp khúc vô nghĩa lại
càng làm cho những tiếng “đời đời, đời đời”
nghe rõ hơn. Bóng áo vàng của công an bao trùm lên mọi ngõ ngách của cuộc sống
đồng nghĩa với một bản án chung thân hay lưu đày biệt tích.
Thực ra cũng chẳng
ngoa để bảo rằng chế độ cộng sản là một nhà tù không hơn không kém. Vào nhà tù
nhỏ, ít nhứt có người còn nuôi hy vọng được trở về nhà tù lớn. Trong nhà tù lớn,
mọi người cứ phải phập phồng lo sợ không biết mình lại phải chui vào nhà tù nhỏ
lúc nào.Tù nhỏ hay tù lớn, ở đâu cũng là tù cả. Mà một ngày trong tù bằng cả
ngàn ngày ở ngoài, cho nên có bảo rằng thời gian trong cái nhà tù lớn là chế độ
cộng sản có “ngưng lại”, thì cũng chẳng phải là “cường điệu” cho lắm. Đúng như
nhà văn Vũ Thư Hiên đã cảm nhận, trong chế độ cộng sản “Đêm đến ngay giữa ban ngày”.
Kể từ tháng 4 năm 1975, mặt trời đã bị dép râu và mũ tai bèo che khuất đến độ
tương lai chỉ còn là một đêm dài vô tận.
Tốc độ của thời
gian quả thật được đo lường bằng tự do. Có tự do, thời gian như đi tới. Thiếu tự
do thời gian ngưng chuyển động.
Nhà văn Bùi ngọc
Tấn, tác giả của “Chuyện kể năm 2000”,
đã bị giam tù từ năm 1967 đến năm 1972, trong vụ án gọi là “chống đảng xét lại”.
Tôi không nhớ rõ đã đọc ở đâu đó một đoạn văn, trong đó ông kể lại rằng vừa ra
khỏi tù ông cảm thấy thơ thới khi được ngồi lên chiếc xe đạp. Ông đi xe đạp cho
thỏa thích và kết luận: “tự do là tốc độ”.
Dĩ nhiên, ở trong tù, bị cùm chân như linh mục Nguyễn Hữu Lễ, bị tước đoạt khả
năng đi đứng thì làm gì biết được thế nào là tốc độ. Bị biệt giam như linh mục
Nguyễn văn Lý, còn thấy đâu là không gian để đi lại và cảm được sự nhanh chậm của
sự di chuyển.
Năm 1982, không
còn phải nghe tiếng đồng hồ “đời đời, đời
đời” của địa ngục trần gian Việt nam, tôi đã thực sự cảm nghiệm được tốc độ
của thời gian khi đến Âu Châu. Phương trình “Tự do = Tốc độ” đã được thể hiện
rõ nét nhứt qua cách đi đứng của người Tây Phương. Tôi ngỡ ngàng và cũng ngây
ngất khi thấy người ta không lê những bước chân mỏi mệt trên đường phố: tất cả
mọi người đều đi như chạy! Người ta chạy trên đường phố. Người ta chạy để đuổi
kịp chuyến xe điện ngầm. Cái cảnh “xếp
hàng cả ngày” giữa trưa nắng để mua một vé xe, để xin một chữ ký chứng nhận
của mấy “người đầy tớ nhân dân” hay để được uống một ly cà phê trong một cửa
hàng mậu dịch quốc doanh… đã dần dần mờ nhạt trong ký ức của tôi. Phương trình
“Tự do= Tốc độ” lại càng thể nghiệm đúng hơn khi lần đầu tiên tôi được ngồi
trên những chuyến xe lửa “TGV” siêu tốc của Pháp. Nhớ lại cái thời phải mất
nguyên một ngày để đi một đoạn đường không quá một trăm cây số, phải qua bao
nhiêu trạm kiểm soát “tự phát” và tùy tiện
của công an, của đủ mọi thứ thuế vụ mà hãi hùng! Ở trong những nước tự do, như
Âu Châu chẳng hạn, chỉ lái xe vài tiếng đồng hồ hay chỉ cần leo lên xe lửa ngủ
một thoáng cũng đã có thể đến một nước khác. Tôi nhớ, nhiều lúc đi du lịch, tôi
không muốn xuống khỏi xe lửa: tôi cứ thích ngồi mãi trên đó để ngắm cảnh và cảm
thấy mình thực sự tự do. Lần đầu tiên đến Mỹ, tôi cũng sống lại cái cảm giác ấy:
hệ thống xa lộ ngút ngàn của nước này là một chứng nghiệm của phương trình “Tự
do = Tốc độ”. Nói chi đến chuyện ăn uống. Các quán “ăn nhanh” (fast food) không
phải là một biểu hiện về tốc độ của thời gian ư? Người ta phải ăn vội ăn nhanh,
bởi vì thời gian là vàng là bạc, thời gian không nhân nhượng, thời gian không
chịu nhẩn nha hay dừng lại. Ngay cả tốc độ của Internet ở một xứ tự do cũng nói
lên tốc độ nhanh chóng của thời gian. Thời chưa mở cửa, ở Việt nam, thông tin
là một cái tội. Nghe đài “địch” là một hành động phản động, liên lạc với người
nước ngoài cũng là phản quốc. Ngày nay, cho dù có cố gắng chạy theo tốc độ của
các nước tự do, hệ thống Internet của Việt nam cũng vẫn là một con rùa. Cứ vào
một quán cà phê Internet để gởi một cái thư, thấy như đầu mình nóng lên vì bao
nhiêu con mắt “chìm nổi” đang theo dõi, thời gian không chậm mà như “đứng lại”.
Trái tim tôi cũng “đứng lại”. Đứng cho đến khi cái email nhảy được vô “xa lộ
thông tin” và…trót lọt.
Tự do đã cho tôi
cảm nhận được tốc độ của thời gian. Gần 30 năm thoát khỏi địa ngục trần gian,
tôi thấy mình chẳng khác nào Từ Thức. Lần đầu tiên trở về thăm quê hương, tôi
thấy như lạc vào một thế giới xa lạ. Rất nhiều người không nhận ra tôi. Gặp những
em bé, trông giống một khuôn mặt quen thuộc nào đó, tôi gọi lại hỏi tên cha mẹ.
Chúng nó nói đến những cái tên tôi chưa từng nghe biết. Gạn hỏi tên ông bà, tôi
mới tìm ra được tông tích của chúng. Ông bà nội ngoại hay ngay cả ông bà cố nội
ngoại của chúng chính là những người cùng lứa tuổi của tôi ngày xưa. Có kẻ đã
ra người thiên cổ. Có người trông “già” đến độ tôi không biết phải xếp họ vào hạng
tuổi nào. Thời gian ứ đọng, ngừng trôi quả là một thứ độc dược có sức tàn phá
nhan sắc con người khủng khiếp. Những người cùng lứa tuổi với tôi, ngày nay
trông tàn tạ đến độ khiến tôi phải vận dụng toàn bộ năng lực của trí nhớ mới nhận
ra.
Bánh xe thời
gian trong xứ sở tự do nơi tôi đang sống quả thật đang lăn quá nhanh. Dường như
thời gian trôi nhanh đến độ con người không kịp già. Ở Việt nam, những người
thuộc lứa tuổi của tôi nếu không ra đi vì bệnh tật, thì đa số cũng đã là những
cụ ông cụ bà lụ khụ. Ở nơi xứ sở tự do tôi đang sống, tuổi thọ ngày càng dài ra
và thật khó để đánh giá chính xác được ai già hơn ai. Nhiều người “sáu, bảy bó”
mà cứ như còn trung niên. Chuyện một số người đàn ông ở lứa tuổi của tôi, da dẻ
hồng hào thẳng thướm, mái tóc chỉ cần tân trang chút đỉnh, về Việt nam kiếm bồ
nhí không còn là chuyện “động trời” nữa. Tự do, ít nhứt là tự do chính trị hay
tự do trong những quyền cơ bản nhứt của con người, dường như làm cho thời gian
qua nhanh và cũng làm cho tuổi già chậm lại.
Tôi đang được hưởng
tự do chính trị và tất cả những quyền tự do cơ bản khác của con người. Nhưng
quan trọng hơn đối với tôi chính là cái tâm trạng thơ thới của một con người
đang được hít thở không khí tự do. Tôi thấy mình làm được nhiều thứ mà những
người cùng lứa tuổi của tôi ở Việt nam không được phép làm hay không có điều kiện
để làm. Thời gian ở một xứ sở tự do trôi qua quá nhanh khiến tôi lúc nào cũng cảm
thấy một ngày sống như quá ngắn. Dĩ nhiên, ở đâu mà không có nắng mưa, không có
những ngày buồn. Nhưng cũng như nhà văn Nguyễn ngọc Ngạn, tôi thấy ở cái xứ ở tự
do này, ngay cả “Ngày buồn cũng qua mau”.
Rời bỏ địa ngục
trần gian để đi tìm tự do, tôi đã tìm được tự do.Tôi thấy chẳng có gì để kêu
trách hay than phiền nữa. Cũng như những “thuyền nhân” người Anh trên chiếc
thuyền Mayflower hồi năm 1620, tôi chỉ thấy có mỗi một tâm tình đúng đắn nhứt
vào mỗi tháng Tư đen là tạ ơn. Vừa đến bến bờ tự do, những người di dân tiên
phong của Hoa Kỳ này đã tổ chức “tạ ơn”. Tạ ơn Thượng đế đã ban cho họ được tự
do. Tạ ơn người thổ dân đã ân cần đón tiếp họ. Ngày nay, cứ vào ngày thứ Năm cuối tháng 11, dù thuộc tôn giáo và văn hóa nào, người
Mỹ nào cũng cảm thấy được hãnh diện làm “hậu duệ” của những người tỵ nạn đầu
tiên ấy để làm cho sống mãi tâm tình tạ ơn trong Ngày Tạ Ơn.
Tôi không thể sống
như một con người tự do mà không tạ ơn.
Tạ ơn Thượng Đế
đã ban tặng cho tôi món quà của Sự Sống và Tự Do.
Tạ ơn những quốc
gia đã mở rộng biên giới để đón nhận tôi vào ngưỡng cửa của tự do.
Tạ ơn không biết
bao nhiêu tổ chức thiện nguyện đã giúp đỡ tôi chuẩn bị bước vào đời sống tự do.
Tạ ơn đất nước
đã đón nhận và cưu mang tôi trong vòm trời tự do.
Tạ ơn những người
công dân của quê hương mới mà lòng tốt và hai tiếng “cám ơn” không ngừng được
thốt ra trên cửa miệng luôn nhắc nhở tôi về lòng biết ơn.
Tạ ơn và tạ ơn
không ngừng, bởi vì “mỗi buổi sáng, nếu bạn
thức dậy với tâm tình tạ ơn, thì khó hoặc hầu như không thể không cảm thấy bình
an” (Richard Carlson, Don’t Sweat the Small Stuff...trg.66)
Chính nhờ tâm
tình tạ ơn mà tôi luôn cảm thấy mỗi ngày là một món quà vô giá của Trời và của
Người. Có lẽ vì vậy mà dù đời tha hương luôn bận rộn và vất vả, ngày mưa hay
ngày nắng, ngày làm hay ngày nghỉ, ngày vui hay ngày buồn trong tôi đều qua thật
mau.
Chu Thập, Tháng Tư 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét