Chu Thập
10.4.15
Nghe chuyện tượng đài “Mẹ anh hùng Nguyễn Thị Thứ” vừa được khánh thành tại tỉnh
Quảng Nam dạo cuối tháng 3 vừa qua, nhân dịp tỉnh này kỷ
niệm đúng 40 năm ngày được “giải phóng”, tôi liền vào Google để tìm hiểu về bà
mẹ anh hùng này. “Bách khoa toàn thư mở” (Wikipedia) của Việt Nam ghi lại vài nét về “bà mẹ anh
hùng” này như sau: Sinh năm 1904 tại thôn Thanh Quýt 2, xã Điện Thắng Trung,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, bà Nguyễn Thị Thứ là người mẹ có nhiều con cháu
hy sinh nhứt trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp chống Mỹ kéo dài gần 30
năm, từ 1948 đến 1975. Chính vì vậy mà bà Thứ trở thành “bà mẹ Việt Nam anh
hùng” tiêu biểu, được lấy làm nguyên mẫu để xây dựng tượng đài Bà mẹ Việt Nam
anh hùng tại tỉnh Quảng Nam trong dịp kỷ niệm 60 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ.
Bà qua đời ngày 10 tháng 12 năm 2010 tại Đà Nẵng.
Về chuyện người đàn bà này được chọn làm nguyên mẫu để xây tượng đài lớn nhứt
Đông Nam Á, cũng “Bách khoa toàn thư mở” của Việt Nam cho biết chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã quyết định đưa công trình tượng
đài bà mẹ Việt Nam anh hùng vào danh sách các công trình văn hóa cấp quốc gia với
kinh phí lên đến trên 400 trăm tỷ đồng Việt Nam. Với một kinh phí quá lớn như
thế cho nên ông Phạm Trung, Trưởng ban Mỹ Thuật hiện đại đã phải thốt lên: “Xây dựng tượng đài hoành tráng cũng như nhà
nghèo nuôi voi chơi”. Riêng bà Lê Thị Trí, con gái của bà Nguyễn Thị Thứ,
nay đã 80 tuổi, cũng là “mẹ anh hùng”, đã nói: “Ban đầu khi nghe tỉnh chọn hình
ảnh mẹ tôi làm mẫu để xây dựng tượng đài, tôi xúc động lắm. Nhưng mà bây giờ xây tượng đài tốn nhiều quá,
nơi chín suối chắc mẹ tôi cũng không vui”. “Mẹ Việt Nam anh hùng” vui sao
được khi tỉnh Quảng Nam của mẹ vẫn còn nghèo và còn nhiều trường hợp trẻ em đi
học không có cầu phải lội qua sông. “Bách khoa toàn thư mở” của Việt Nam còn
cho biết: theo một cuộc thăm dò ý kiến trên mạng của báo VnExpress, chỉ có 5 phần
trăm ý kiến cho là “nên làm” tượng đài, 52 phần trăm chống lại dự án, số khác đề
nghị “nên làm” nhưng ít tốn kém hơn. Vậy mà cuối cùng, với sự chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, dự án tượng đài lớn nhứt cả nước
và lớn nhứt trong toàn vùng Đông Nam Á vẫn được tiến hành và hoàn thành. Có hai
chi tiết rất ý nghĩa được “Bách khoa toàn thư mở” ghi nhận ở cuối bài như sau: “Rất
nhiều bài thơ được khắc trên bia đá trong khu vực tượng đài sai chính tả. Sau
khi khánh thành một tuần, phần nền gạch trước mặt tượng đài đã bị bong
tróc, vỡ vụn”.
Không biết, ông thủ tướng đã vào bưng lúc chỉ mới 12 tuổi nghĩ gì trong đầu
khi chỉ đạo xây dựng tượng đài lớn nhứt Đông Nam Á tại một tỉnh nghèo kiết xác
nhứt nước này, nhứt là khi ông thú nhận: “Bây giờ chúng ta đứng chót ASEAN (Liên hiệp các nước Đông Nam Á), thậm chí có lĩnh vực còn thấp hơn Lào,
Campuchia, Myanmar...làm sao mà đất nước mình, dân tộc mình chấp nhận được”.
Thú thật, tôi không thể hiểu được lý luận của ông thủ tướng
này. Có phải vì “đứng chót” ASEAN, mà Việt Nam ta phải “qua mặt” cả khối để xây
dựng tượng đài lớn nhứt không?
Mà Việt Nam đâu chỉ muốn “qua mặt” ASEAN về tượng đài “mẹ Việt Nam anh
hùng”. Nghe đâu, Việt Nam của ông Nguyễn Tấn Dũng thích “chơi nổi” này còn muốn
xây dựng tại Hà Nội một tháp truyền hình cao nhứt thế giới nữa. Ông Nguyễn
Thành Lương, phó giám đốc VTV, trưởng ban chuẩn bị dự án xây tháp truyền hình cao
nhứt thế giới này giải thích: “Ý nghĩa của tháp truyền hình Việt Nam sẽ là giá
trị biểu tượng phát triển kinh tế đất nước, thu hút du lịch...” Từ Ba Lan, tác
giả Đinh Minh Đạo đã phải nêu lên câu hỏi: “Chẳng lẽ kinh tế Việt Nam tụt hậu
so với Singapore hơn 100 năm, Thái Lan hơn 90 năm, không những chúng ta tụt hậu
so với thế giới mà ngay cả đối với các nước trong vùng, lại cần một biểu tượng
là ngọn tháp truyền hình cao nhất thế giới? Với cơ sở hạ tầng của Hà Nội, phố xá mất vệ sinh, giao thông đi lại lộn xộn thiếu an toàn,
trời mưa là biến thành “Hà Lội”, giá cả phục vụ du lịch tùy tiện lại cần một
tháp truyền hình cao nhất thế giới để thu hút khách du lịch” (x.Tính Phô Trương Cộng Sản, Đàn Chim Việt online 5/4/2015)
Năm 1975, say men chiến thắng đến độ “nói xàm” như người điên với những khẩu
hiệu như “đỉnh cao trí tuệ loài người” ,
“lương tâm nhân loại” nghe còn tạm hiểu được. Nay sau 40 năm thu tóm đất nước về
một mối và gần “bảy mươi năm lẻ” tiến lên xã hội chủ nghĩa mà chẳng “có ra đếch
gì” như người dân Hà Nội “tức cảnh” vịnh thơ về bức tượng Lenin, vậy mà vẫn cứ
vênh mặt lên để làm đủ trò nhảm nhí.
Tưởng niệm 40 năm ngày Quốc Hận, nhìn về đất nước, dân tộc, quê hương, tôi
nhận thấy một trong những đức tính căn bản nhứt để thành công trong cuộc đời, dù
trong cuộc sống cá nhân hay sinh hoạt chính trị xã hội, chính là sự khiêm tốn.
Đây là đức tính mà người cộng sản không hề có. Và đây chính là nguyên nhân dẫn
đất nước đến chỗ tụt hậu về mọi mặt.
Cho tới nay, nhiều người cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục đề cao gương “đạo đức”
của ông Hồ Chí Minh và một trong những nét nổi bật trong nhân cách của ông là
thái độ khiêm tốn. Trong cuốn tự thuật “Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch”,
với bút hiệu Trần Dân Tiên, chính ông đã tự khen mình: “Một người như Hồ Chủ Tịch
của chúng ta, với đức tính khiêm tốn nhường
ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe
bình sinh của Người được?” Trên thế gian này, có nhân vật lịch sử nào khả ố đến
độ tự viết tiểu sử của mình và tự đề cao như một con người khiêm tốn không? Đây chính là tột cùng của sự kiêu căng và dĩ
nhiên cũng là tận cùng của sự thui chột nhân cách!
Những người cộng sản Việt Nam đã học đúng sách của ông Hồ Chí Minh về thái
độ kiêu căng và thói giả hình ấy. Xây đài tưởng niệm, dựng tượng đài, mua bằng
cấp giả, lập thành tích giả, thi đua đạt kỷ lục...tất cả đều là biểu hiện của
tính kiêu căng và giả hình ấy. Cái thùng rỗng thì lúc nào cũng kêu to. Đó là
chuyện mà ngay cả đứa con nít nào cũng biết! Cách đây mấy năm, về thăm lại quê hương, đi từ Nam ra Bắc, nhìn hai
bên đường, tôi thấy nổi bật nhứt là các đồn công an và đủ các bia, tượng và đài
kỷ niệm. Những lúc bị tào tháo rượt vì cơm đường cháo chợ, tôi vừa chạy vừa chửi
thầm: cái đất nước gì mà tượng đài nhiều hơn nhà vệ sinh!
Tôi tin rằng nếu Việt Nam phải mất 100 năm nữa mới đạt được trình độ phát
triển hiện nay của Singapore là vì cái thói kiêu căng và giả hình thâm căn cố đế
ấy. Nhân sự ra đi của cố thủ tướng Lý Quang Diệu, vị cha già dân tộc xứng đáng
để được mọi người dân Singapore xếp hàng đến cả 7 tiếng đồng hồ để kính viếng
và tiễn đưa, nhiều người đã tự hỏi: Việt Nam đã học được gì từ
Singapore? Đúng hơn, phải nói: những người cộng sản Việt Nam đã học được gì từ
cố Thủ tướng Lý Quang Diệu? Dĩ nhiên, cá nhân ông Lý Quang Diệu mới thực sự
là một tấm gương đạo đức theo đúng nghĩa để mọi người trên thế giới noi theo,
chớ không riêng gì người cộng sản Việt Nam.
Cả đời, tôi chưa hề chạy theo và tôn thờ bất cứ thần tượng nào. Với tôi, ai
cũng đều là những con người bất toàn. Nhưng ít nhứt nơi người này người kia,
tôi vẫn học được nhiều điều, nhứt là trong cố gắng sống cho ra người tử tế. Về
phương diện này, ông Lý Quang Diệu xứng đáng là “thày” của tôi. Nhìn lại những
thành đạt cá nhân và những thành tích ông đã làm được để đưa hòn đảo nghèo nàn
lạc hậu thuộc thế giới đệ tam lên hàng các nước văn minh tiến bộ nhứt thế giới
cũng như điều được gọi là di sản ông để lại cho Singapore và thế giới, tôi đặc
biệt chú ý đến “lệnh” của ông là: hãy phá hủy ngôi nhà của ông. Với quyết định
này, ông Lý Quang Diệu muốn chứng tỏ rằng trong suốt cuộc đời của ông, ông
không bao giờ để cho tệ nạn sùng bái cá nhân chi phối ông. Theo tôi, đây mới là
sự khiêm tốn đích thực. Dĩ nhiên, người dân Singapore có quyền và bổn phận phải
bày tỏ lòng tri ân và kính mến đối với ông. Lòng biết ơn đối với người quá cố,
nhứt là một người đã có công đối với đất nước, là chìa khóa để duy trì lòng yêu
nước và là động lực để bảo vệ và củng cố sự phát triển của quốc gia. Nhưng cùng
với lòng biết ơn, người dân Singapore cũng sẽ tiếp tục phát huy di sản lớn nhứt
mà ông Lý Quang Diệu đã để lại: đó là tinh thần phục vụ vô vị lợi của ông.
Tưởng niệm 40 năm ngày Quốc Hận, tôi không chỉ nhìn lại đất nước, quê hương
và dân tộc đang bị đọa đày dưới chế độ cộng sản. Tôi cũng nhìn lại cuộc hành
trình của tôi nơi xứ người. Mỗi năm, cứ bước vào Tháng Tư Đen, tôi đều nhìn lại bản thân. Trong các bài học về làm
người tôi đã học được, quan trọng nhứt đối với tôi vẫn là tinh thần vị tha và
phục vụ vô vị lợi. Nhân cách của tôi có lớn thêm hay không là tùy ở thái độ ấy.
Úc Đại Lợi không phải là đất nước mà cứ ra ngõ là gặp anh hùng như cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của mấy ông cộng sản.
Dĩ nhiên, mỗi năm đến ngày Quốc Khánh, cũng có một số người được tuyên dương
công trạng vì những đóng góp trổi vượt của họ cho xã hội. Nhưng nhìn chung, ở
quốc gia “miệt dưới” này, tôi chẳng bao giờ thấy có hiện tượng thi đua lập
thành tích trong bất cứ lãnh vực nào. Dù vậy, cứ ra đường là tôi bắt gặp tấm
lòng tử tế được thể hiện qua những cử chỉ rất nhỏ nhặt và âm thầm như một nụ cười
thân thiện, một lời cám ơn, một tiếng
xin lỗi, một sự nhường bước...Ở đất nước này, không có những khẩu hiệu được giăng mắc khắp nơi để đề cao sự “Vĩ Đại” của ai đó mà
những chú bé trong phim “Chuyện tử tế” do đạo diễn Trần Văn Thủy thực hiện hồi
năm 1985, bảo là “có nghe nói đến (sự tử tế) nhưng chẳng bao giờ nhìn thấy”. Ở Úc Đại Lợi thì trái lại, tôi không bao giờ
nghe người ta rêu rao về sự “Vĩ Đại”, nhưng tôi lại cảm nhận được sự vĩ đại qua
không biết bao nhiêu cử chỉ tử tế mà tôi chứng kiến mỗi ngày.
Với tôi, bất cứ ai làm được những cử chỉ tử tế nhỏ bé ấy đều là “anh hùng”.
Họ là thày tôi. Họ chẳng bao giờ mong được đưa lên bệ thờ hay được đúc thành tượng
đài. Nhưng họ đã dạy cho tôi bài học lớn nhứt và căn bản nhứt không những trong
thuật xử thế, mà còn và trước tiên đối với sự thành toàn nhân cách. Bài học đó
là sự khiêm tốn và tinh thần phục vụ vô vị lợi.
Nửa đời người sống ở xứ sở tự do sẽ phí đi nếu tôi không lớn thêm chút nào
trong sự quên mình và tinh thần phục vụ vô vị lợi ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét