12/10/18
Giải Nobel Hòa Bình năm nay đã được trao cho hai người là
bác sĩ Denis Mukwege và một thiếu nữ người Yazidi là cô Nadia Murad.
Ông Mukwege là một bác sĩ phụ khoa chuyên chữa trị các nạn
nhân của bạo động tình dục tại Cộng hòa Dân chủ Congo, Phi Châu. Còn cô Murad,
một nô lệ tình dục đã thoát khỏi tay của các các chiến binh “Quốc gia Hồi giáo”
(ISIS), đã can đảm lên tiếng tố cáo tội ác chiến tranh của tổ chức khủng bố này
và nhứt là phơi bày trước thế giới thảm cảnh của những phụ nữ bị bắt làm nô lệ
tình dục. Chủ tịch Ủy ban Giải Nobel nói rằng hai người này được trao tặng Giải
Nobel Hòa Bình vì “nỗ lực của họ trong việc chấm dứt việc sử dụng bạo hành tình
dục như một vũ khí trong chiến tranh và xung đột có vũ trang. Cả hai đều đã có
một đóng góp lớn lao vào việc gây ý thức và chống lại những tội ác chiến tranh
như thế”.
Riêng cô Nadia Murad, năm nay 25 tuổi, qua cuộc tranh đấu
của mình, đã gây được sự chú ý của thế giới trước thân phận của người phụ nữ
Yazidi bị các chiến binh của Quốc gia Hồi giáo bắt làm nô lệ tình dục.
Thảm cảnh đã ụp xuống người phụ nữ Yazidi vào ngày 2
tháng Tám năm 2014. Đó là một ngày lễ nghỉ tại huyện Sinjar, miền Bắc Iraq. Hôm
đó những người thuộc sắc tộc Yazidi họp nhau để mừng ngày chấm dứt tháng chay tịnh
của người Hồi giáo. Hôm đó là một ngày nóng bức. Nhiệt độ lên đến 40 độ C. Nhiều
người phải đợi cho đến hoàng hôn mới ra khỏi nhà. Nhưng hôm đó, khi mặt trời vừa
lặn, người dân Sinjar thấy có những chiếc xe lạ xuất hiện. Dự đoán bất trắc có
thể xảy ra, những người đàn ông cầm súng chạy ra các ruộng lúa để kiểm soát.
Đây không phải là lần đầu tiên họ thấy có những chiếc xe
lạ như thế. Cách đó 2 tháng, họ cũng đã thấy cả một đoàn công voa xe lạ xuất hiện
trước khi thành phố Mosul, thủ phủ của tỉnh Nineveh mà Sinjar là một huyện nhỏ,
rơi vào thay của Quốc gia Hồi giáo. Mosul cách Sinjar 120 cây số về hướng Đông.
Sau Mosul hàng loạt những thành phố khác cũng rơi vào tay tổ chức khủng bố này.
Cả 4 tiểu đoàn thuộc quân đội Iraq cũng đã tháo chạy. Riêng tiểu đoàn thứ ba mà
nhiều binh sĩ là người Yazidi, vốn đồn trú tại Sinjar. Như vậy, Sinjar hoàn
toàn bỏ trống, để mặc cho người dân đứng ra tự vệ.
Sau khi chiếm Mosul, Quốc gia Hồi giáo đã phóng thích cho các tù nhân Hồi giáo thuộc hệ
phái Sunni bị giam giữ trong nhà tù Badoush. Riêng đối với các tù nhân thuộc hệ
phái Shiite, họ đã xử tử 600 người. Phần lớn khí giới mà các phiến quân của Quốc
gia Hồi giáo sử dụng đều là khí giới và thiết bị được tịch thu từ các căn cứ
quân sự của Iraq. Các binh sĩ Iraq vứt bỏ quân phục và khí giới để thoát thân.
Nửa triệu thường dân chạy trốn về hường Bắc và hướng Đông. Chỉ trong một tuần lễ,
một phần ba lãnh thổ Iraq bị Quốc gia Hồi giáo kiểm soát. Huyện Sinjar, với dân
số khoảng 300.000 người, đã đầu hàng. Một vài tuyến đường vẫn còn nằm trong sự
kiểm soát của quân đội Kurd ở miền Bắc, nhưng phải mở đường máu may ra mới có
thể đến được những tuyến đường này.
Một phần miền Bắc Iraq là một vùng bán tự trị, được đặt
dưới sự cái trị của người Kurd và được quân đội Peshmerga của họ bảo vệ.
Peshmerga, trong tiếng Kurd, có nghĩa là “những người dám đương đầu với tử thần”.
Danh hiệu này nói lên sự dũng cảm của người Kurd trong cuộc chiến đấu chống lại
đàn áp và ngoại xâm. Tại vùng đông nam của lãnh thổ bán tự trị này, vốn giáp giới
với Iran, quân đội Peshmerga của người Kurd đã từng đụng độ với các chiến binh
của Quốc gia Hồi giáo. Nhưng tại huyện Sinjar, ngoại trừ các dân quân người
Yazidi, không còn một lực lượng nào có mặt để bảo vệ người dân.
Leila là một thiếu nữ Yazidi tại Sinjar. Gia đình cô làm
nông. Người thiếu nữ 25 tuổi này còn có 2 người em và 3 người anh. Gia đình sống
tại một làng nhỏ dưới chân núi Sinjar. Sau khi Hoa Kỳ xâm chiếm Iraq hồi năm
2003, 3 người anh của Leila đều đã gia nhập quân đội Peshmerga của người Kurd.
Một cô em gái của Leila sống với người chồng mới cưới tại một làng gần biên giới
Syria. Buổi sáng ngày 2 tháng Tám năm 2014, cô em gái này đã gọi điện thoại về cho
gia đình và cho biết họ đang chạy trốn vì các chiến binh của Quốc gia Hồi giáo
đang tiến đến gần làng của cô. Nghe tin này, nghĩ rằng Sinjar còn an toàn, cả
gia đình Leila đã chạy về đó. Nhưng khi đến nơi họ mới biết rằng dân chúng tại
đây cũng đang bỏ chạy. Ngôi làng họ vừa đặt chân đến đã bị các chiến binh của
Quốc gia Hồi giáo bao vây. Cả gia đình Leila đều bị kẹt trong vòng vây. Tất cả
đều bị họ bắt giữ và đưa vào trụ sở hành chính của huyện Sinjar. Đàn ông và đàn
bà bị giam riêng. Khoảng 9 giờ tối hôm đó, các chiến binh của Quốc gia Hồi giáo
bắt đầu cầm đèn rọi vào từng khuôn mặt của phụ nữ. Khi họ đến gần mình, Leila
đã té xỉu. Nhờ vậy mà cô đã thoát nạn. Tất cả các phụ nữ khác, trong đó có 5
thiếu nữ bà con của Leila đều bị bắt đem đi.
Cho tới lúc đó, những người phụ nữ Yazidi vẫn chưa biết số
phận của mình sẽ ra sao. Nhưng các chiến binh của tổ chức khủng bố này đã có cả
một kế hoạch đồi bại: họ sẽ bắt tất cả các thiếu nữ độc thân và các em bé gái
trên 8 tuổi làm nô lệ tình dục.
Khi huyện Sinjar bị Quốc gia Hồi giáo tân công, đã có
trên 100.000 người Yazidi trốn được lên núi Sinjar. Ai không chạy thoát được đều
bị bắt. Riêng đàn ông bị giết chết tại chỗ. Đã có hàng ngàn người Yazidi hoặc bị
xử tử và quăng xuống giếng hoặc chết vì khát, vì thương tích hay kiệt sức trên
núi.
Theo dân biểu Vian Dakhil, vốn là một người Yazidi từ
Sinjar, có tất cả 6.383 người Yazidi, phần lớn là phụ nữ và trẻ em, đã bị giam
hãm trong các nhà tù, các trại huấn luyện và nhà của các chiến binh Quốc gia Hồi
giáo rải rác tại miền Đông Syria và miền Tây Iraq. Tại đây, họ đã bị hãm hiếp,
hành hung, mang đi bán. Tính đến giữa năm 2016, đã có 2.590 phụ nữ và trẻ em hoặc
đã trốn thoát được hoặc bị bán ra ngoài lãnh thổ do Quốc gia Hồi giáo kiểm
soát. Vào thời điểm đó, số người bị giam giữ lên đến gần 4.000 người.
Yazidi là một sắc tộc nói tiếng Kurd sinh sống phần lớn tại
miền Bắc Iraq. Trên toàn thế giới hiện không có tới một triệu người. Trong suốt
dòng lịch sử của họ, người Yazidi đã không ngừng bị bách hại vì bị các nhà lãnh
đạo Hồi giáo xem như người “ngoại đạo”. Tự nhận là người Hồi giáo, người Yazidi
lại thực hành một số nghi thức của Kitô Giáo như “rửa tội” cũng như sống theo
niềm tin của các tín đồ Zoroastra.
Dưới thời nhà độc tài Saddam Hussein, vì Iraq bị Liên Hiệp
Quốc cấm vận và nhất là do cuộc xâm lăng của Hoa Kỳ, cộng đồng người Yazidi đã
bị buộc phải di dản đi khắp nơi. Trên toàn lãnh thổ Iraq hiện chỉ còn 500.000
người Yazidi, phần lớn tập trung tại huyện Sinjar. Phần lớn những người Yazidi
tại Syria và Thổ Nhĩ Kỳ đã trốn sang các nước láng giềng hoặc tỵ nạn tại Âu
Châu. Riêng tại Đức, hiện có một cộng đồng Yazidi khoảng 25.000 người.
Từ nhiều thế hệ, người Yazidi đã bị tàn sát và đàn áp dã
man. Nhưng nếu không có cuộc tấn công của các chiến binh Quốc gia Hồi giáo vào
huyện Sinjar hồi mùa hè năm 2014, có lẽ thế giới ít chú ý đến số phận của họ,
nhất là của người phụ nữ.
Thoạt tiên, các phụ nữ và thiếu nữ Yazidi bị các phiến
quân của Quốc gia Hồi giáo đưa đến một số địa điểm đã được tổ chức sẵn. Tại
đây, họ được phân chia hay chuyền tay cho các chiến binh nào đã có công trong cuộc
tấn công vào huyện Sinjar. Để tránh khỏi bị hãm hiếp, một số thiếu nữ đã tự tử
bằng cách cắt mạch máu ở cườm tay hay cổ, hoặc tự treo cổ hoặc nhảy từ lầu cao.
Riêng Leila, sau khi đã chứng kiến cảnh các thiếu nữ khác
bị bắt mang đi và hiểu được rằng chưa có chồng là một tình trạng nguy hiểm cho
nên đã tìm cách đóng vai làm mẹ của 2 đứa cháu nhỏ.
Sau khi bị giam giữ một thời gian tại tòa hành chánh của
huyện Sinjar, Leila đã cùng với nhiều người khác được đưa đến một trường học mà
các chiến binh Quốc gia Hồi giáo đã biến thành nhà tù tại Tel Afar, cách Sinjar
độ 50 cây số. Tại đây, một số tù nhân đã trốn thoát và liên lạc được với quân đội
Peshmerga của người Kurd.
Nhiều thiếu nữ Yazidi bị giam giữ theo từng nhóm từ 100 đến
200 người trong các chiếc xe “caravan” tại những nơi đóng quân của các chiến
binh người Libya. Tất cả đều bị xiềng lại. Họ bị đánh đập, hãm hiếp và chuyền
tay nhau giữa các chiến binh chẳng khác nào thú vật.
Sau hơn một tháng bị giam giữ, Leila và ba thiếu nữ khác
bị đưa trở về Iraq và bị giam giữ tại một căn cứ quân sự gần biên giới Syria,
cách Sinjar khoảng 200 cây số về hướng nam. Sau đó, Leila bị bán cho một người
tên là Muhammad. Cô nhận ra người này: ông ta đã từng là một người bạn thân của
gia đình cô. Cô cứ tưởng ông ta sẽ là người giải thoát và đưa cô trở về gia
đình. Nhưng trái lại, ông lại đem bán cô cho một lãnh tụ chiến binh của Quốc
gia Hồi giáo. Người đàn ông này nổi tiếng là một tay chuyên buôn bán phụ nữ để
làm nô lệ tình dục. Bị chuyền tay từ người này sang người khác, cuối cùng Leila
đã được một nhà doanh nghiệp người Yazidi chuộc lại và trả tự do cho cô.
Nadia Murad, người vừa được trao tặng Giải Nobel Hòa
Bình, cũng trải qua một cuộc hành trình đầy nước mắt như các phụ nữ Yazidi
khác. Cô bị bắt làm nô lệ tình dục cho các chiến binh của Quốc gia Hồi giáo tại
thành phố Mosul. Sau khi đã trốn thoát, tháng Hai năm 2015, Murad đã kể lại câu
chuyện của mình cho các phóng viên của báo La Libre Belgique (Nước Bỉ Tự Do) của
Bỉ. Cũng trong năm đó, cô được đi tỵ nạn tại Đức. Tháng Mười Hai năm đó, cô đã
được mời đến Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc để nói chuyện về vấn đề buôn người.
Tháng Chín năm sau, cô loan báo thành lập tổ chức lấy tên là “Nadia’s
Initiative” (Sáng kiến Nadia) để giúp “các phụ nữ và trẻ em nạn nhân của diệt
chủng, buôn người...làm lại cuộc đời và hội nhập vào cộng đồng của họ”.
Tháng Mười Một năm 2015, huyện Sinjar được giải phóng. Kể
từ đó, các lực lượng Peshmerga và các nhóm vũ trang khác của người Kurd lại
tranh giành nhau. Tuy đã thoát khỏi Quốc gia Hồi giáo, nhưng người Yazidi lại bị
xâu xé giữa các nhóm vũ trang khác nhau. Trước kia họ sợ Quốc gia Hồi giáo tấn
công, nay họ lại sợ chính những người đã giải phóng họ. Tính đến tháng Năm năm
2016, mặc dù đã được giải thoát, chỉ có khoảng trên dưới 3 ngàn gia đình người
Yazidi trở về huyện Sinjar.
(theo: Slaves of Isis: the long walk of the Yazidi women https://www.theguardian.com/world/2017/jul/25/slaves-of-isis-the-long-walk-of-the-yazidi-women)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét