Chu Thập
19/10/18
Nữ tỷ phú thời trang người Ý, bà Miuccia Bianchi Prada đã
có lần nói: “Điều bạn mang trên người là cách bạn tự giới thiệu với thế giới,
nhứt là ngày nay, khi sự giao tiếp giữa loài người diễn ra rất nhanh. Thời
trang là một ngôn ngữ trực tiếp”. Thời trang, hay nói chung, cách phục sức, từ
quần áo, giày dép đến mũ mão...là một thể
hiện của nhân cách của một con người cũng như cách sống của một thời đại và
ngay cả lịch sử của cả một dân tộc.
Thời còn làm việc bên Phi Luật Tân, tôi rất thích chiếc
áo sơ mi có tên là Barong Tagalog được xem là quốc phục của nước này. Người Phi
thường mặc nó trong các lễ hội. Ngay cả các vị nguyên thủ quốc gia, mỗi khi
tham dự một hội nghị quốc tế được tổ chức tại Phi Luật Tân, cũng khoác lên người
chiếc áo này.
Được dệt bằng một thứ tơ lụa đặc biệt, chiếc Barong
Tagalog cho người đối diện một cái nhìn trong suốt từ trong ra ngoài. Tôi không
biết trước khi bị người Tây Ban Nha đô hộ cách đây hơn 400 năm, người dân Phi
ăn mặc như thế nào. Nhưng mỗi khi tìm hiểu về nguồn gốc của chiếc Barong
Tagalog, tôi luôn được người Phi giải thích rằng người Tây Ban Nha bắt người
dân bản xứ phải mặc chiếc áo này để phân biệt họ với giai cấp thống trị. Ngoài
ra người thực dân Tây Ban Nha cũng buộc người Phi phải mặc chiếc áo trong suốt
này để biết chắc họ không dấu khí giới trong người và nếu là công nhân sẽ không
ăn cắp vặt tại những nơi họ được mướn làm việc. Không biết lối giải thích này
có thích đáng không. Chỉ có điều chắc chắn là chiếc áo này chỉ xuất hiện kể từ
thời thuộc địa. Một cách nào đó, nó gợi lại lịch sử của thời thuộc địa.
Nếu chiếc áo Barong Tagalog của người Phi gợi lại lịch sử
của thời thuộc địa Tây Ban Nha, thì ở Việt Nam, mỗi khi nhìn thấy chiếc áo đại
cán trên người của một số lãnh tụ cộng sản Việt Nam, tôi không thể không nghĩ đến
sự lệ thuộc của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam vào Trung Cộng. Mao Trạch
Đông suốt đời mặc nó. Ngày nay, mặc dù thường xuất hiện trong bộ vía của người
Tây Phương, với “com lê” và “cà vạt” hẳn hoi, nhưng để khắng định tính chất độc
tài độc đảng mà chủ nghĩa cộng sản chỉ là một thứ bình phong, Chủ tịch Tập Cận
Bình không ngần ngại khoác lên người chiếc áo đại cán. Ngay cả cậu Kim Jung-un
của chế độ cha truyền con nối Bắc Hàn cũng vậy: du học ở Thụy Sĩ, thích ăn bơ sữa
và uống rượu Tây đến độ béo phì, cậu cũng thích đóng bộ như người Tây Phương,
nhưng để thể hiện quyền lực của mình, cậu luôn xuất hiện trong chiếc áo đại
cán.
Quần áo, giày dép và mũ mão quả thật cũng là thể hiện của quyền lực và ý thức hệ. Tháng
Năm năm 1975, phần lớn người dân Miền Nam Việt Nam lần đầu tiên thấy nguyên
hình nguyên trạng người lính bộ đội Bắc Việt với cách phục sức điển hình của chế
độ cộng sản: mặc quần áo kaki Nam Định, chân đi dép râu, đầu đội nón cối. Riêng
chiếc nón cối, cho tới ngày hôm nay, lúc nào cũng gợi lên sự ngờ nghệch ngốc
nghếch của người bộ đội và cán bộ Miền Bắc, nhưng đồng thời lại là biểu trưng của
sự áp bức và tàn ác của chế độ cộng sản. Đối với một người tỵ nạn, còn gì nhục
nhã bằng bị trùm lên đầu một chiếc “nón cối”! Ngay cả nữ tài tử Jane Fonda, người
vào năm 1972 đã đội chiếc nón cối chụp
hình chung với các cán binh cộng sản ngay giữ thủ đô Hà Nội để ủng hộ chế độ cộng
sản, có lẽ cũng chẳng còn mặt mũi nào để đội lại chiếc nón cối ấy.
Điều oái oăm là cũng như chiếc áo Barong Tagalog của người
Phi gắn liền với thời thuộc địa Tây Ban Nha thì chiếc nón cối của người bộ đội
Miền Bắc chắc chắn không phải là một phát minh của người Việt Nam, mà là tàn
tích của thời thực dân Pháp. Hình ảnh của chiếc nón cối do đó không chỉ là biểu
trưng của chế độ cộng sản độc tài, tàn ác, mà còn gợi lên trong tôi cả “một
trăm năm đô hộ giặc Tây”.
Nói chung, ở đâu bước giày thực dân dẫm lên là ở đó một
phần ánh sáng của tự do bị che khuất bởi chiếc nói cối. Tôi không hiểu đệ nhứt phu nhân Hoa Kỳ, Melania Trump nghĩ
gì trong đầu khi mang chiếc ủng của thực dân và đội trên đầu chiếc nón cối khi
đi thăm một số nước Phi Châu, đặc biệt là tại Kenya hồi đầu tháng Mười vừa qua.
Là một người mẫu thời trang và nhứt là người của công
chúng, bà hiểu hơn ai hết ý nghĩa của những gì bà mang trên người và thông điệp
bà muốn nhắn gởi qua cách phục sức của bà. Dạo tháng Sáu vừa qua, khi đi thăm các
nạn nhân bão lụt tại Tiểu bang Texas, bà khoác trên người chiếc áo “gió” hiệu
Zara rẻ tiền với khẩu hiệu được ghi sau lưng “I really don’t care, do U?” (Tôi
thực sự không quan tâm, còn bạn thì sao?).
Lúc đó, dư luận xôn xao bàn tán là chuyện không thể tránh được. Bà không
lên tiếng giải thích. Nhưng mới đây, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Đài ABC
của Mỹ, bà giải thích rằng khi mang chiếc áo gió với khẩu hiệu ấy, bà muốn nói
rằng bà không màng đến chuyện báo chí bàn tán đủ chuyện về bà và về mối quan hệ
giữa bà và chồng bà, Tổng thống Donald Trump. Bà khẳng định rằng bà bỏ ngoài
tai ba cái chuyện “làm xàm” ấy để tập trung vào những chuyện đại sự.
Và lần này, một trong những chuyện đại sự mà một đệ nhứt
phu nhân như bà cần phải làm là một mình lên lên đường viếng thăm một số nước Phi Châu. Nhưng khổ nỗi, chuyện đại sự
như vậy mà truyền thông không chịu chú ý tới, mà chỉ thích chúi mũi vào chuyện
bên lề như cách phục sức của bà trong chuyến viếng thăm Phi Châu vừa qua.
Là một người mẫu và nhứt là người của công chúng, bà
không thể không cân nhắc về tất cả những gì mình mang trên người. Liệu lần này,
khi mang đôi ủng và đội trên đầu chiếc nón cối của thực dân, bà cũng sẽ tuyên bố
“tôi không quan tâm”, tôi “cóc cần” dư luận không? Có thể nhiều người Mỹ không
màng tới thiệt. Nhưng có thể một người Phi Châu và nhứt là một người dân đã từng
bị thực dân đô hộ như tôi, không thể không “nghĩ ngợi” và thắc mắc. Lịch sử là
lịch sử. Dù cho lịch sử có sang trang, tôi không thể không quên “một trăm năm
đô hộ giặc Tây” với không biết bao nhiêu hậu quả mà cho tới ngày nay đất nước của
tôi vẫn tiếp tục gánh chịu. Năm nay, vì vụ tai tiếng về tình dục có liên hệ tới
chồng của một thành viên trong ban giám khảo, cho nên Hàn Lâm Viện Thụy Điển
tuyên bố không có giải Nobel Văn Chương 2018. Thay vào đó, 100 nhân viên các
thư viện, cũng như các nhân vật thuộc giới văn học Thụy Điển đã quyết định lập
một giải mới để tạm thời thay thế cho Giải Nobel Văn Chương năm nay. Và giải tạm
thời này đã được trao cho bà Maryse Condé, một nữ tiểu thuyết gia người da đen
thuộc Đảo Guadeloupe, một lãnh thổ hải ngoại của Pháp. Khi quyết định trao giải
cho bà Condé, ban giám khảo của Giải Nobel tạm thời, đã tuyên bố rằng bà Condé
“với một ngôn ngữ chính xác, đã mô tả những tai hại của chính sách thuộc địa và
sự hỗn loạn thời hậu thuộc địa”. Bà Condé đã nói thay cho rất nhiều người dân
thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Từ thực dân đến cộng sản :tại nhiều nước, con
đường dẫn đến cộng sản thường là thực dân. Cộng sản là thứ cỏ khó tiêu diệt đã
mọc trên mảnh đất phì nhiêu là thực dân.
Là một người sinh ra và lớn lên vào cuối thời thực dân,
nhưng kinh nghiệm và một ít hiểu biết về lịch sử cũng đủ giúp tôi hiểu được ý
nghĩa tượng trưng của chiếc nón cối của người thực dân. Vào Thế kỷ 19, người thực
dân tin rằng bức xạ từ mặt trời tại những nước nhiệt đới đã tấn công hệ thống
thần kinh của người da trắng và làm cho họ trở thành vô sinh. Ngoài ra, cũng
theo người thực dân, bức xạ mặt trời ở vùng nhiệt đới còn tạo ra một số triệu
chứng khác như lười biếng, trầm cảm, tính khí bất thường, buồn ngủ và mất trí
nhớ.
Chiếc nón cối, nhứt là nón cối mầu trắng, được người thực
dân xem như một thứ khiên thuẫn để chống đỡ những bức xạ của mặt trời. Và dĩ
nhiên, nó cũng biến thành biểu tượng của quyền lực của người cai trị và sức mạnh
của người da trắng: chỉ có người da trắng mới đội nón cối!
Cùng với chiếc nón cối, vào thời đó, y khoa cũng khuyên
người da trắng chớ nên làm việc tay chân ngoài trời. Nếu có thì chỉ nên làm “đốc
công” mà thôi! Đã khai thác tài nguyên thiên nhiên của người bản xứ đến cạn kiệt,
người thực dân cũng bóc lột sức lao động của họ cho đến tận xương tủy. Đó là
chưa kể đến bao nhiêu tội ác của người da trắng khi bắt hàng hàng lớp lớp người
dân bản xứ phải làm nô lệ cho mình. Chối bỏ tội ác của chủ nghĩa nô lệ cũng đâu
có khác gì với chối bỏ hành động diệt chủng của Đức Quốc Xã đối với người Do
Thái trong thời Đệ nhị Thế chiến. Tôi không hiểu được đệ nhứt phu nhân Melania
Trump muốn nhắn gởi điều gì khi đội chiếc nón cối của thời thực dân trong chuyến
viếng thăm Phi Châu vừa qua. Tôi lại càng không hiểu được tại sao một người gốc
Phi Châu như ca sĩ nhạc Rap nổi tiếng Kanye West lại tuyên bố: “Khi bạn nghe
nói đến 400 năm nô lệ...400 năm ư? Có vẻ như đó là một sự chọn lựa”. “Chọn lựa”
bị săn đuổi và xiềng xích như súc vật để mang sang vùng đất mới làm nô lệ cho
người da trắng ư? Giá như người ca sĩ này tháp tùng bà Melania Trump sang Ghana
để đi qua cánh cửa được mệnh danh là “Door of No Return” (cánh cửa một lần đi
qua để không bao giờ trở về), nơi mà người Phi Châu bị nhốt lại để trao đổi như
súc vật và mang sang Hoa Kỳ để làm nô lệ suốt bao nhiêu thế hệ, có lẽ ông sẽ hiểu
được rằng chẳng có ai chọn làm thân nô lệ cả.
Đại diện cho một chế độ lúc nào cũng giương cao hai khẩu hiệu
“Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” và “Nước Mỹ trước hết” và nhứt là đại diện cho
một ông chồng tổng thống đã từng gọi một số nước Phi Châu là “hố xí”, tôi không
biết đệ nhứt phu nhân Melania Trump muốn nhắn gởi thông điệp gì khi mặc chiếc
áo sơ mi trắng, mang đôi ủng và nhứt đội
trên đầu chiếc nón cối khi viếng thăm Phi Châu. Chỉ thiếu chiếc gậy “ba toong”
(baton) trên tay là trọn bộ của một tên thực dân da trắng chính hiệu. Nhưng với
tôi, “thời trang” ấy đã gợi lên một thời thực dân mà nhiều nước Phi Châu và nhứt
là Việt Nam của tôi đã trải qua. Nói cho cùng, đàng sau chiếc nón cối ấy là những
tội ác tày trời mà người thực dân da trắng đã gây ra cho người dân các nước bị
trị, là thái độ miệt thị và chối bỏ nhân phẩm của người dân bản xứ, là sự phủ
nhận sự bình đẳng của mọi người được sinh ra trên mặt đất này.
Ngày nay, “mọi người sinh ra đều bình đẳng” đã
trở thành một thứ “tín điều” được dùng làm câu mở đầu cho Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền và được tuyên xưng trong không biết bao nhiêu hiến pháp của các nước,
kể cả của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng cũng như mọi tín điều tôn
giáo, lời tuyên tín này sẽ vô nghĩa và rỗng tuếch nếu nó không được thực thi
trong quan hệ của tôi với mọi người trong cuộc sống hằng ngày. Tuyên xưng “mọi
người sinh ra đều bình đẳng” là nhận ra chính mình trong mỗi một tha nhân, dù
thuộc chủng tộc, văn hóa hay địa vị xã hội nào. Tuyên xưng “mọi người sinh ra đều
bình đẳng” cũng có nghĩa một cách cụ thể là tôn trọng, yêu thương, cảm thông và
cư xử tử tế với mọi người. Nói cho cùng, tuyên xưng “mọi người sinh ra đều bình
đẳng” là “làm cho người khác những gì mình cũng muốn người khác làm cho mình”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét