Thứ Năm, 18 tháng 10, 2018

Chuyện nhỏ, nhân cách lớn



Chu Thập
12/10/18
Ông Đỗ Mười đã ra đi hồi đầu tháng Mười vừa qua. Về ông, cũng như đối với tất cả các lãnh tụ cộng sản khác, dĩ nhiên người ta chỉ nghĩ đến tội ác. Một người thuộc bên “thua cuộc” như tôi làm sao quên được chiến dịch đánh tư sản, những năm sống dở chết dở của không biết bao nhiêu người ở những nơi được gọi là vùng kinh tế mới và nhứt là những năm tháng “khoai củ trần ai” và bo bo.
Trong các lãnh tụ cộng sản Việt Nam, có lẽ ông Đỗ Mười là người đã tạo được những ấn tượng sâu đậm nhứt trong ký ức của người Việt Nam. Có người, hễ nhắc đến tên ông, là nhớ ngay đến cái nghề hoạn lợn (miền tôi gọi là thiến heo) ở thuở hàn vi của ông. Không biết sau này khi phú quý sinh lễ nghĩa, ông có nuôi thú kiểng không. Nhưng kể ra heo và đặc biệt heo đực là giống thú thật may mắn: nhắc đến Đỗ Mười là phải nghĩ đến Trư Bát Giới!
Riêng tôi, cứ mường tượng đến dung mạo  của ông Đỗ Mười, tôi lại nghĩ đến “mái tóc rẽ ngôi kinh điển” của ông. Phải nói đây là nét độc đáo nhứt trên khuôn mặt mà có lẽ do bị ám ảnh, tôi cứ nghĩ nó phải là biểu tượng của sự gian ác. Trên báo mạng Đàn Chim Việt.info, số ra ngày đầu tháng Mười vừa qua, tôi đọc được một ấn tượng của tác giả ký tên là Nguyễn Thu về mái tóc của ông Đỗ Mười: “Đồng chí có mái tóc rẽ ngôi kinh điển, được dân nuôi chó (thời mà dân thành phố phải vật lộn làm kinh tế qua các trào lưu từ nuôi lợn đến nuôi chó cảnh, gà úm, chim cút...trong phòng ngủ, phòng khách) lấy làm ví dụ để rỉ tai khuyên nhau: Chó Nhật giống tốt là phải có quả đầu Đỗ Mười”
(x.http://www.danchimviet.info/vai-an-tuong-cua-toi-ve-do-muoi/).
Nhà tôi hiện cũng đang có một con chó Nhật. Kể từ lúc đọc được “lời khuyên” trên đây, tôi hay nghĩ đến cái trò ma mãnh của cậu chó nhà tôi. Nó cũng là chó Nhật, nhưng là Nhật lai cũng đã mấy đời rồi. Người chủ cũ bảo nó là giống chó săn. Không bé bỏng như giống chó kiểng bị nhốt trong nhà suốt ngày. Cũng không bề thế như giống “bẹc rê” (berger). Vốn là dòng dõi chó săn cho nên nó rất hung hăng: hễ cứ thấy có một đối thủ, bất kể lớn bé, nó liền xáp lại tấn công. Còn riêng bất cứ loài có cánh nào, hễ thấy là cậu ta liền rượt đuổi cho bằng được. Chỉ mới về ở với chúng tôi một thời gian ngắn, nó đã lập được một thành tích bất ngờ: hôm đó, một lũ gà lôi rừng (bush turkey), ăn quen cứ nhởn nhơ trong vườn nhà tôi như chỗ không người. Cậu chó nhà tôi được dịp lập công ngay. Nhanh như chớp, nó rượt đuổi và dồn một chị gà rừng vào một góc sân và chỉ cần một cú đớp đã ngoạm con vật vào miệng. Tôi đã chạy tới can thiệp, nhưng quá muộn. Sợ bị rắc rối về “tội ác” của cậu chó, nhưng tôi cũng cảm thấy hả dạ: kể từ nay,mình đã có thủ hạ đắc lực để loại trừ bọn “xâm phạm gia cư bất hợp pháp”!
Ngày nay, hầu như ở đâu người ta cũng thấy những lợi ích của việc nuôi chó. Riêng tôi, lúc nào cũng nghĩ đến trước mắt một lợi ích rất cụ thể: chó giúp tôi đuổi gà lôi rừng ra khỏi vườn nhà tôi. Nhưng phải mất bao công lao và dày công tập luyện, cậu chó nhà tôi mới được thuần nhuyễn trong việc đuổi gà. Theo sách vở và kinh nghiệm, để tập được một thói quen, chó phải luôn được thưởng và thưởng bằng những món ăn nó thích. Bảo nó nằm xuống, phải cho nó ăn. Bảo nó đứng lên, phải cho nó ăn. Và dĩ nhiên, ra dấu cho nó chạy đuổi mấy con gà lôi rừng, lại càng phải tưởng thưởng nó nhiều hơn. Phản xạ có điều kiện của Pavlov đã được ứng dụng một cách có hiệu quả nhứt với cậu chó nhà tôi. Lệnh đuổi gà của tôi và phần thưởng gắn liền với nhau. Và đây chính là sự liên hệ khiến tôi nghĩ đến sự ma mãnh của nó.
Ban ngày cậu chó nhà tôi thường ở trong khu nhà giặt được tôi biến thành gia cư của cậu. Cứ thấy tôi xuất hiện, cậu liền chạy ra  vườn nhìn quanh quẩn một lúc rồi mới  đi tìm mấy con gà lôi rừng. Sau một vòng tảo thanh, cậu chạy về và ứ ứ trong miệng bằng một thứ ngôn ngữ mà tôi hiểu ngay là cậu đòi được thưởng. Nhiều hôm, gà xuất hiện trong vườn, trong tầm nhìn của cậu, nhưng cậu chỉ lõ mắt nhìn chớ không tha thiết gì đến chuyện rượt đuổi. Phải chờ tôi xuất hiện cậu mới xăng xái làm việc và lần nào cũng vậy, sau khi làm bổn phận cậu đòi phải được thưởng.
Kể từ khi có chó trong nhà, tôi học hay đúng hơn nhớ lại nhiều bài học. Ai cũng biết chó là biểu tượng của sự trung thành và biết ơn. Chó luôn nhắc nhở tôi về hai đức tính căn bản ấy trong trường học làm người. Ngoài ra, một bài học cơ bản khác không thể thiếu trong cuộc sống mà tôi cũng học được từ cậu chó nhà tôi là: cần phải tập luyện liên tục tôi mới có được một thói quen tốt và dĩ nhiên, nếu thường xuyên lập lại một điều không tốt, tôi cũng vướng vào một thói quen xấu.
Văn ôn võ luyện. Ngoại trừ những thần đồng, chẳng có ai đạt được một nghệ thuật nào đó mà không dày công tập luyện. Một nhân cách tồi tệ cũng thường được nhào nặn từ những thói quen xấu. Ngạn ngữ Pháp nói một cách chí lý: nhỏ ăn cắp một cái trứng lớn sẽ ăn cắp một con bò (qui vole un oeuf volera un boeuf).
Trong cuốn phim “The Iron Lady” (Bà đầm sắt) được trình chiếu hồi năm 2011, nhà đạo diễn đã đặt lên môi của nữ Thủ tướng Anh Margaret Thatcher (1925-2013) câu nói: “Hãy coi chừng tư tưởng của bạn, vì nó sẽ trở thành lời nói. Hãy coi chừng lời nói của bạn, vì nó sẽ trở thành hành động. Hãy coi chừng hành động của bạn, vì nó sẽ trở thành thói quen. Hãy coi chừng thói quen của bạn, vì nó sẽ trở thành tính khí của bạn. Hãy coi chừng tính khí của bạn, vì nó sẽ trở thành định mệnh của bạn.” Bà Thatcher bảo rằng thân phụ của bà luôn dạy bà điều đó. Thật ra, trước cha của bà Thatcher, có lẽ  Mahatma Gandhi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi sự đô hộ của người Anh bằng cuộc đấu tranh bất bạo động, là người đầu tiên đã nói lên điều đó.
Nhưng dù ai là tác giả của câu nói này, kinh nghiệm bản thân luôn cho tôi thấy rằng bất cứ thói quen, tốt hay xấu nào, cũng đều là một sự lập lại của những điều thường được xem là nhỏ nhặt trong cuộc sống và một khi đã biến thành một nếp nghĩ hay tính khí, nó không thể không ảnh hưởng đến những chuyện lớn trong cuộc sống của tôi. Chính Chúa Giêsu đã dạy tôi điều đó: “Ai trung thành trong việc nhỏ cũng sẽ trung thành trong việc lớn và ai không lương thiện trong việc nhỏ cũng sẽ không lương thiện trong việc lớn” (x. Tin mừng theo thánh Luca 16, 11,12).
Tôi thường suy nghĩ về lời dạy của Chúa Giêsu khi theo dõi thế sự. Gần đây có cuộc chuẩn thuận một thẩm phán vào Tối cao Pháp viện ở Mỹ. Đây là cơ quan luật pháp có uy tín nhứt tại nước này. Người được Thượng viện chuẩn thuận phải là một người có đầy đủ tư cách và đáng tin tưởng. Việc chuẩn thuận ông Brett Kavanaugh là một trong những tiến trình gay go nhứt trong lịch sử Hoa Kỳ. Theo dõi diễn tiến, ai cũng thấy đây là một cuộc đấu đá giữa hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa và cuối cùng đảng Cộng Hòa cùng với Tổng thống Donald Trump đã chiến thắng hơn là cuộc đối đầu giữa ông Kavanaugh và  Tiến sĩ Christine Blasey Ford, người đã tố cáo ông  có hành vi xâm phạm tình dục đối với bà cách đây 35 năm. Một bên tố cáo, một bên phủ nhận. Ngoại trừ thái độ xem ra rất thành thật của bà Ford khi cung khai sự kiện, không có bằng chứng hiển nhiên nào để buộc tội ông Kavanaugh. Và dĩ nhiên, sự phủ nhận của ông Kavanaugh cũng không kém phần thuyết phục. Ai nói thật, ai khai gian, chỉ có lương tâm họ mới biết mà thôi.
Chỉ có điều khiến tôi lo ngại là cung cách của người đã được Thượng viện chuẩn thuận làm thẩm phán của Tối cao Pháp viện. Trong một bài diễn văn đọc hồi năm 2015, Thẩm phán liên bang Kavanaugh đã từng đưa ra nguyên tắc: “Để làm một thẩm phán tốt và một trọng tài tốt, cần phải là người có tư cách”. Ông giải thích: “Cần phải làm chủ được cảm xúc của mình. Cần phải bình tĩnh giữa bão táp. Nói tóm lại, nói theo ngôn ngữ bình dân, đừng tỏ ra ngu xuẩn”. Quả là những lời lẽ khôn ngoan của một thẩm phán có tư cách. Nhưng trong cuộc đối đầu với bà Ford trước Ủy ban Tư pháp của Thượng viện, ông đã hành động hoàn toàn ngược lại với nguyên tắc này. Là một thẩm phán, nhứt là sẽ làm thẩm phán Tối cao Pháp viện, lẽ ra ông không được đứng về phía đảng phái nào. Đàng này, ông lại trút hết cơn giận dữ lên Đảng Dân Chủ và khẳng định rằng đảng này muốn trả thù ông. Ông lại có thái độ khiếm nhã khi bị Thượng nghị sĩ Amy Klobuchar chất vấn về việc uống bia của ông khi còn là một học sinh trung học.
Ngoài thái độ hằn học trên đây, Thẩm phán Kavanaugh cũng không thành thật trong lời khai của mình, nhứt là về chuyện uống bia thời còn đi học. Ông khai: “Tôi thích uống bia.Tôi vẫn thích bia. Nhưng tôi không hề uống bia đến độ say xỉn”. Nhưng trong bài diễn văn tại Đại học Yale hồi năm 2014, ông đã kể lại những ngày nhậu nhẹt đến độ “té xuống khỏi xe buýt trước cửa Phân khoa Luật của Đại học Yale vào lúc 4 giờ 45 phút sáng”.
Về tuổi hợp pháp để được uống rượu, ông khai trước Ủy ban Tư pháp Thượng viện: “Tuổi được phép uống rượu tại Tiểu bang Maryland là 18 trong suốt thời gian tôi học trung học”. Thật ra, vào năm 1982, khi ông được 17 tuổi, tức năm bà Ford tố cáo ông đã tấn công tình dục bà, tuổi được cho phép uống rượu tại Maryland là 21.
Trên đây chỉ là những chuyện nhỏ. Ai cũng có thể tỏ ra thiếu thành thật và thiếu lương thiện như thế trong chuyện nhỏ. Nhưng với một người sẽ cầm cân nẩy mực và một quyết định của người đó có thể liên quan đến cuộc sống của hàng triệu người, thì xem ra những lời nói dối nhỏ như thế không còn là chuyện nhỏ nữa.
Chính vì thái độ hằn học thiếu tự chủ của ông Kavanaugh và những lời nói dối nhỏ của ông mà một cựu thẩm phán của Tối cao Pháp viện là ông John Paul Stevens đã khuyên Thượng viện đừng chuẩn thuận ông. Thẩm phán Stevens là người thuộc Đảng Cộng hòa. Thường các cựu thẩm phán không có ý kiến về việc chuẩn thuận hay không chuẩn thuận một thẩm phán vào Tối cao Pháp viện. Nhưng ông Stevens đã tuyên bố: “Tôi thay đổi cái nhìn của tôi về những lý do không có liên hệ đến khả năng trí thức hay thành tích của một thẩm phán liên bang...Tôi nghĩ rằng thái độ của ông (Kavanaugh) trong lời cung khai đã khiến tôi thay đổi ý kiến”.
Báo Time, số ra ngày 15 tháng Mười này, đã dành một bài để nói về những “bài học lâu dài” từ lời khai của Tiến sĩ Ford. Riêng tôi, khi theo dõi thế sự, chỉ muốn ôn lại một bài học: sống lương thiện là một cuộc thao luyện hàng ngày xuyên qua những suy nghĩ, những hành vi nhỏ nhặt không ai biết trong cuộc sống. Bởi nếu tôi không lương thiện trong tư tưởng, tôi cũng sẽ không lương thiện trong lời nói. Nếu tôi không lương thiện trong lời nói, tôi cũng sẽ không lương thiện trong hành động. Và một khi hành động thiếu lương thiện biến thành thói quen, thì nếu tôi không đi tới chỗ làm chuyện gian dối thì tôi cũng đánh mất chính tôi, cái tôi của “nhân chi sơ tính bản thiện”.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét