Thứ Tư, 6 tháng 7, 2016

Uy Vũ Bất Khuất


Chu Thập
9.10.12

Cha tôi là người rất tin ở thuyết “Ác giả ác báo” hay “quả báo nhãn tiền”. Gặp ức hiếp, cha tôi vẫn luôn tỏ ra lạc quan vì tin tưởng rằng những kẻ ăn ở “bất nhơn thất đức” sẽ bị trừng phạt không ở đời này thì cũng “đời sau”. Sau 1975, có lần về thăm nhà, tôi lén ngủ lại nhà mà không khai báo với chính quyền địa phương. Tối hôm đó, tôi nghe cha tôi đọc kinh lần chuỗi một mình oang oang cả xóm làng. Tôi liền hỏi nhỏ: “Cha có cầu nguyện cho mấy tên cộng sản không?”  Ông già tôi trả lời tỉnh bơ: “Dại gì cầu cho chúng nó. Để cho chúng nó đi hỏa ngục!”

Tôi hiểu được phần nào niềm xác tín của cha tôi về cái lẽ “thưởng phạt” công minh luôn có trong trời đất. Đầu thập niên 1950, khi vừa có trí khôn, tôi có nghe loáng thoáng và cũng ghi nhận được vài hình ảnh về việc cha tôi có tham gia kháng chiến với Việt Minh. Có lần, giữa đêm khuya, cả nhà đều bị đánh thức. Có nhiều người lạ xuất hiện trong nhà và sau đó cha tôi đi biền biệt một thời gian.Tôi không nhớ rõ cha tôi “lên núi” bao lâu, chỉ biết rằng một thời gian sau khi cha tôi trở về, một buổi sáng cả nhà đã thức dậy để chứng kiến cảnh đàn trâu bò vài chục con ở phía trước nhà đều bị lính Tây từ cái “đồn” bên cạnh bắn gục. Vài ngày sau đó, mấy mẫu mía đường của cha tôi cũng bị đốt cháy. Tôi cũng có nghe nói cha tôi vào tù ra khám đôi ba lần, vì chuyện gì đó tôi cũng chẳng rõ. Về sau, khi đã cắp sách đến trường, tôi mới nghe cha tôi nhắc đến mối thù truyền kiếp của ông. Người làm cho nhà tôi lâm cảnh tán gia bại sản và cha tôi phải bị tù tội là một người cùng làng. Nhờ có chút chữ nghĩa, ông này được Tây cho làm tới chức quận trưởng. Vào thời đó, quận trưởng là người hét ra lửa, muốn bắt hay tha ai tùy ý. Mỗi lần nhắc đến ông quận này, cha tôi thường nói: để tụi bay coi, thế nào trời cũng quả báo!
Do bị cha tôi “đầu độc” cho nên khi thấy ông quận này về già phải đi lom khom vì có mang một cái bướu lớn trên lưng, anh em tôi đắc chí bàn tán: thấy chưa, trời phạt mà!  Riêng với cha tôi, thì “Ông Trời lúc nào cũng có con mắt”, cho nên mấy người con trai của ông quận này chẳng có ai ăn học và làm nên trò trống gì cả; nhà giàu có mà chẳng có người con nào đậu được cái bằng trung học đệ nhứt cấp vào thời đó.
Cùng với “gương” trước mắt về chuyện “quả báo nhãn tiền”, đi xem “xi nê” lại thấy toàn chuyện trừ gian diệt tặc của mấy anh cao bồi Mỹ, rồi kế đó là phim võ thuật Hong Kong và Đài Loan, cho nên tôi lại càng tin rằng trong cõi đời ô trọc này, luôn diễn ra cuộc chiến giữa Thiện và Ác và cuối cùng Thiện lúc nào cũng thắng Ác. Trong cuộc sống thường ngày, có bị ức hiếp hay đối xử bất công đến đâu, vào rạp xi nê là thấy được rửa hận ngay!  Kẻ gian ác lúc nào cũng bị trừng phạt!
Lịch sử nhân loại xem ra cũng tiến triển theo đường thẳng ấy. Đế quốc nào tàn bạo và hùng mạnh đến đâu rốt cục cũng sụp đổ tiêu tan. Chế độ độc tài nào hung hãn đến đâu trước sau rồi cũng bị lật đổ.Tên đồ tể nào không cuốn gói ra đi trong nhục nhã thì cũng bị xử tử hay giam tù mục xương.
Nhưng dường như đã có luật thì cũng phải có luật trừ. Mà thật xui vì mấy cái luật trừ này lại rơi không đúng chỗ chút nào. Tôi có ý nghĩ ấy khi nhìn vào chế độ cộng sản ở Trung quốc hay ở Việt nam hiện nay. Độc tài tàn bạo như mấy ông cộng sản Trung Quốc mà vẫn cứ trơ trơ ra đó. Không những không có dấu hiệu sụp đổ mà người khổng lồ này lại ngày càng lấn lướt, bành trướng và đe dọa thế giới như chỗ không người. Dựa hơi đàn anh theo thế “môi hở răng lạnh”, chế độ cộng sản Việt nam vẫn cứ tiếp tục đàn áp và hà hiếp dân lành chớ có sợ thằng Tây nào đâu! Trong hai nước cộng sản này, xem ra cái Ác vẫn tiếp tục thắng thế. Kẻ gian ác cứ nhởn nhơ vơ vét tiền của và hưởng thụ, người lành cứ phải khốn khổ trăm chiều.
Trong những ngày này, cũng như nhà báo Ngô Nhân Dụng, tôi “cứ nghĩ đến anh Nguyễn Chí Thiện”. Cứ quên đi một lúc lại nhớ; lại nghĩ: Anh Nguyễn Chí Thiện đã đi rồi. Sáng nay, khi nghĩ về anh, tôi chợt nhớ một câu thơ cổ “Il est mort, le vieux orgueilleux chêne de la forêt” (nó đã chết rồi, cây sồi già ngạo nghễ của rừng xanh) (Ngô Nhân Dụng, nhờ đâu không mất nước, Người Việt online 5/10/2012). Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện thật xứng đáng với hình tượng cây sồi kiên cường trong văn chương Pháp. Nhưng nhớ đến “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện, tôi lại bắt đầu nghi ngờ về qui luật “Thiện luôn thắng Ác”. Sau 27 năm bị giam tù, ông Nelson Mandela đã tận mắt chứng kiến sự sụp đổ của chế độ phân biệt chủng tộc của người da trắng tại Nam Phi và chính ông, người bị giam giữ với một thời gian kỷ lục, đã được bầu lên làm tổng thống. Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, với 2 lần vào tù ra khám, đã bị đày đọa với một thời gian lâu dài chẳng kém gì ông Mandela. Vậy mà ông đã phải nhắm mắt lìa đời trước khi được thấy ngày tàn của chế độ cộng sản. Như ông đã phải chua chát nhìn nhận: “Tôi lại nghĩ một điều, một điều sâu thẳm, là đêm tàn Cộng sản tối tăm có thể kéo dài mấy mươi năm. Và như thế sẽ buồn lắm lắm, cho kiếp người sống chẳng bao lăm”. Không biết lúc nào mới đến “ngày con người hôm nay vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Đảng...khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng”. Nhà thơ đã mơ và chẳng bao giờ thấy được ngày ấy! Dường như Nguyễn Chí Thiện đã “thua” trong cuộc chiến chống lại Cái Ác mà ông đã vạch mặt chỉ tên. Cái Ác vẫn còn hiện nguyên hình và vẫn còn tác oai tác quái ở Việt nam ngày nay. Qui luật “Thiện thắng Ác” mà cha tôi luôn tin tưởng xem ra không ứng dụng trong trường hợp của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện.
Thật ra, nếu phải lượng giá thắng thua trong cuộc chiến giữa Thiện và Ác, có lẽ nên nhìn vào chiến trường nội tâm của người chiến sĩ hơn là so sánh hơn thiệt giữa hai lực lượng. Luận về thắng thua như thế thì quả thật ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện đã chiến thắng. Nơi chính bản thân ông, Điều Thiện đã thẳng Cái Ác. Vào giữa lúc nhiều trí thức đã bán mình cho chế độ cộng sản để đối lấy danh vọng, quyền lực, tiền của, sự an toàn thì thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã lấy chính mạng sống của mình để tố cáo Cái Ác, sự Gian Dối và để cho Điều Thiện được lên ngôi, ít nhứt là trong bản thân ông. Về điểm này, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xứng đáng mang lấy tên của vị thánh mà ông đã chọn làm quan thày khi chịu phép rửa để gia nhập Kitô giáo . Vị quan thày của ngục sĩ là thánh Thomas More. Là luật sư, văn sĩ, dân biểu Quốc Hội và thủ tướng Anh hồi thế kỷ 16, Thomas More đã có tất cả những thứ mà người đời ai cũng mơ tưởng như quyền lực, tiền của, danh vọng và hạnh phúc gia đình. Nhưng người đàn ông có đời sống gia đình hạnh phúc bên cạnh vợ và 4 người con gái này đã chấp nhận chiến đấu cho tới cùng trong cuộc chiến giữa Thiện và Ác. Cái Ác mà ông chống lại chính là cuộc sống vô luân của vua Henry VIII. Khi ông vua này quyết định ly dị vợ và tự xưng là thủ lãnh của Giáo hội tại Anh, cánh tay mặt của ông lúc đó là Thomas More đã chống cho tới cùng. Thomas More đã bị giam tù và bị chém đầu vì cương quyết không tuyên thệ trung thành với một ông vua như thế. Nhưng cái chết của Thomas More đã không làm thay đổi được cục diện của nước Anh: vua Henry VIII lún sâu vào tội ác khi chém đầu không biết bao nhiêu bà vợ và cung phi, Giáo hội Anh hoàn toàn bị ông khống chế. Thủ tướng Thomas More đã thua cuộc khi đương đầu với một bạo chúa, nhưng chắc chắn ông đã chiến thắng trong cuộc chiến giữa Thiện và Ác. Chính trong ý nghĩa này mà Nguyễn Chí Thiện cũng đáng được tôn vinh như thế. Nhìn dưới góc độ tôn giáo hay nhân bản, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện vẫn là một tấm gương Uy vũ bất khuất hay bậc đại trượng phu đích thực.
Thời Chiến Quốc bên Tàu, Tần là nước mạnh nhứt. Có người đề nghị các nước nhỏ nên hợp nhau lại để chống Tần. Người ta gọi đây là thế “hợp tung”. Ngược lại, cũng không thiếu người đề ra thế “liên hoành”. Theo thế này, để tránh không bị Tần tiêu diệt, các nước nhỏ nên hợp nhau lại sau lưng nước Tần để đi đánh các nước khác. Lúc bấy giờ, có hai nhân vật nổi tiếng là Công tôn Diễn và Tôn nghị Chính, ngày đêm đi du thuyết để kêu gọi các nước nhỏ hãy qui tụ vào thế “liên hoành” và tùng phục nước Tần.
Một hôm có một người ủng hộ thế “liên hoành” tên là Cảnh Xuân đến gặp thày Mạnh Tử để cho biết phản ứng sợ hãi của các nước nhỏ trước uy thế của nước Tần. Ông này gọi hai ông Công tôn Diễn và Tôn nghị Chính là những bậc “đại trượng phu” chính trực. Nghe thế, thày Mạnh Tử mới nói: “Như vậy làm sao có thể được coi là đại trượng phu được?” Rồi ngài giải thích: “Là đại trượng phu, nam tử Hán nên hiểu lễ nghĩa, lấy nhân nghĩa làm căn bản của con người, xem đó là nguyên tắc lớn nhất.  Khi đắc chí không nên rời xa nhân dân, cùng nhân dân đi cùng một đường, khiến nhân dân nguyện cùng anh ta. Khi không đắc chí, cũng có thể một mình giữ nguyên tắc của mình. Tuyệt đối không được vì phú quý khiến bản thân mê mẩn mà loạn tâm, cũng không vì nghèo khó mà thay đổi chí hướng, càng không thể vì bị uy hiếp, bạo lực mà chịu áp bức và lăng nhục khí tiết. Làm được 3 điều này mới là đại trượng phu” (x.Thu Hằng - Kim Thoa, Những câu chuyện Thành Ngữ, Điển tích điển cố Trung Hoa, NXB văn hóa thông tin, Hà nội, 2010, trg 216-217).
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã thể hiện cả ba điều kiện để được gọi là bậc trượng phu như thày Mạnh Tử đã định nghĩa: không để cho tiền của làm cho mê mẩn mà loạn tâm, không vì nghèo đói mà thay đổi chí hướng và nhứt là không để cho bạo lực uy hiếp đến độ làm mất khí tiết. Nhưng có lẽ nhà báo Ngô Nhân Dụng là người đã tóm tắt một cách chính xác nhứt nhân cách của Nguyễn Chí Thiện: “Một nạn nhân của Cái Ác nhưng vẫn giữ được tâm hồn Thiện. Nhưng ai gần gũi anh chắc đều thấy anh tính tình hồn nhiên, giản dị. Tôi chưa nghe anh nói xấu về một người nào bao giờ, trừ Cái Ác” (Ngô Nhân Dụng, ngọn lửa tâm can Nguyễn Chí Thiện, VL5/10/12).
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã ra đi trước khi được thấy hiện thân của Cái Ác là chế độ cộng sản Việt nam bị đánh bại. Nhưng ông đã thực sự chiến thắng, bởi vì ông đã chiến thắng Cái Ác ngay trong chính bản thân của mình.
Khi dẫn giải về chữ “Hạnh” trong Phật giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, viết rằng chữ tương đương với “Hạnh” trong tiếng Tây Tạng là “So Pa”. “So Pa” có nghĩa là “nhẫn nhục, chịu đựng”. Ngài đan cử trường hợp một tăng sĩ tên là Lapon-la. Năm 1959, khi ngài lưu vong sang Ấn độ thì vị tăng sĩ này bị kẹt lại tại Tây Tạng. Ông đã trải qua những tra tấn, hành hạ và bị cưỡng bách phải từ bỏ tôn giáo của mình. 20 năm sau, ông mới có cơ hội rời khỏi Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại rằng vị tăng sĩ này có già đi, nhưng về mặt thể lý vẫn không bị hư hao và tinh thần vẫn sáng suốt. Sự nhẹ nhàng và thanh tịnh vẫn còn nơi ông. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma “hỏi ông có khi nào sợ hãi  không, ông nhìn nhận chỉ có một điều khiến ông lo sợ:  đó là có thể bị mất đi tâm từ bi và sự  quan ngại đến những kẻ giam cầm mình” (Đức Đạt Lai Lạt Ma, Đạo lý cho thiên niên kỷ mới, Ethics for the New Millenium, bản dịch của Linh Thụy, NXB Văn Nghệ, Hoa kỳ 1999, trg 130-131).
Phải chăng chiến thắng vĩ đại nhứt trong đời người không là thắng được Cái Ác, Sự Thù Hận và Ích Kỷ trong chính bản thân mình?












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét