Chu Thập
15.7.16
Tuần này, nước
Pháp mừng Quốc khánh 14 tháng 7. Đã từng sống và muốn chọn “mẫu quốc” làm quê
hương thứ hai, tôi nhớ đến ngày này hơn là ngày 2 tháng 9, quốc khánh của Việt
Cộng. Tôi nhớ đến ngày 14 tháng 7 bởi vì
đây không chỉ là ngày kỷ niệm cuộc cách mạng năm 1789 của riêng nước Pháp, mà
còn của cả thế giới: muốn hay không biến cố này đã như một cơn địa chấn mạnh
làm rung chuyển toàn thế giới.
Nhớ đến quốc
khánh của Pháp, tôi nghe văng vẳng bên tai bài quốc ca “La Marseillaise” được sáng tác vài năm sau cuộc cách mạng. Trong
Giải Túc Cầu Âu Châu vừa qua, âm thanh tạo nhiều cảm xúc nơi tôi nhứt là câu “Hãy ra đi, hỡi những đứa con của tổ quốc,
ngày vinh quang đã đến!” (Allons enfants de la Patrie! Le jour de gloire
est arrivée!) toát ra từ cửa miệng của các cầu thủ. Màu da của các cầu thủ càng
làm nổi bật bài quốc ca của Pháp. Tên chính thức của đội tuyển Pháp là “Les
Bleus” (Đội Áo Xanh”. Theo tôi, lẽ ra phải
đặt tên lại cho đội tuyển Pháp là “Les
Noirs” (Đội da đen) mới đúng, bởi vì nhìn kỹ tôi thấy màu da của hầu hết các
tuyển thủ Pháp, nếu không da màu, ngà ngà thì cũng đều đen cả. Hầu hết đều là
con cái của những di dân hay tỵ nạn đến từ một nước thuộc địa nào đó của Pháp tận
bên Phi Châu. Còn nếu là da trắng như Zidane, như Benzema hay ngay cả như
Platini thì họ cũng chẳng là thuần chủng để hãnh diện “tuyên xưng” rằng “tổ tiên của chúng ta là người Gaulois” (nos ancêtres
song des Gaulois) như một thời người Việt sống dưới thời Pháp thuộc phải đọc
làu làu trong bài mở đầu của môn sử ký.
Nhưng dù có
gốc gác từ đâu, bất cứ người công dân Pháp nào cũng mừng Quốc khánh 14 tháng 7
và cũng đều hát lên bài quốc ca “La Marseillaise” với tất cả niềm tự hào và hãnh diện. Tự hào và hãnh diện
bởi vì được làm công dân của một quốc gia, tuy ở khởi đầu không được hình thành
từ các nhóm di dân, nhưng luôn mở rộng vòng tay để đón nhận người di dân. Màu
da của các cầu thủ Pháp đã nói lên tính đa chủng và đa văn hóa của nước Pháp
ngày nay. Màu da ấy, một cách nào đó, cũng thể hiện khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng,
Huynh đệ” (Liberté, Égalité, Fraternité) được in trên lá cờ Pháp.
Pháp đã hãnh
diện về truyền thống “tự do, bình đẳng, huynh đệ” ấy đến độ cũng muốn quảng bá
đi khắp thế giới. Tượng Nữ thần Tự Do tại Hoa Kỳ là món quà đặc trưng ấy. Thật
vậy, bức tượng bằng đồng hiện đứng trên đảo Liberty Island trong Hải cảng New
York là tác phẩm được Điêu khắc gia Pháp Frédéric Auguste Bartholdi thiết kế và
được Kiến trúc sư kiêm Kỹ sư Gustave Eiffel hoàn thành. Trong bức tượng, Nữ thần
Tự Do của người La Mã giương cao ngọn đuốc cháy sáng và cầm trên tay một tấm bảng
tượng trưng cho luật pháp, trên đó có ghi ngày tuyên bố độc lập của Hoa Kỳ 4
tháng 7 năm 1776. Dưới chân của nữ thần
là những sợi xích đã bị bẽ gẫy. Pháp đã tặng cho Hoa Kỳ bức tượng Nữ thần Tự Do
để không chỉ đề cao nền độc lập của Hiệp chủng quốc, mà còn để nói lên nguồn gốc
di dân của quốc gia này. Tự do đích thực luôn đồng hành với bình đẳng và huynh
đệ. Được những người di dân và tỵ nạn tứ xứ thành lập, Hoa Kỳ tồn tại, thịnh vượng
và vững mạnh lànhờ biết mở rộng vòng tay để đón nhận người di dân. Al Qaeda của
trùm khủng bố Osama Bin Laden đã bình địa Tòa tháp đôi Twin Tower, nhưng đã
không đánh đổ được tượng Nữ thần Tự Do, biểu tượng của một đất nước được gầy dựng
và bồi đắp bởi hàng hàng lớp lớp người di dân.
Có lẽ các
tác giả của tượng Nữ thần Tự Do muốn nói lên điều đó khi tạo cho khuôn mặt của
nữ thần giống một người di dân và một di dân đến từ Trung Đông. Thật vậy, có một
sự kiện ít được chú ý tới là người thiết kế bức tượng, Điêu khắc gia Bartholdi,
đã múc lấy nguồn cảm hứng từ một quốc gia Á Rập là Ai Cập. Năm 1855, ông đã đến
thăm các di tích lịch sử của nước này tại Abu Simbel. Ngây ngất trước lối kiến
trúc của người xưa, ông mới nẩy ra ý nghĩ thiết kế một bức tượng có khuôn mặt của
một phụ nữ Hồi giáo trùm khăn trên đầu (x. http://www.smithsonianmag.com/smart-news/statue-liberty-was-originally-muslim-woman).
Nữ thần Tự Do một cách nào đó cũng là Nữ thần Di Dân. Bài học vỡ lòng về sử ký
của trẻ con Mỹ hẳn không phải là “tổ tiên của chúng ta là người Anh hay người
da trắng” mà là “những người di dân và tỵ nạn tứ xứ”; đồng bàn với họ trên bàn
ăn hay ngồi chung với họ trên cùng một chuyến xe không chỉ là người da trắng mà
là mọi người thuộc đủ mọi màu da, chủng tộc, văn hóa và tôn giáo, hoặc như cố Mục
sư Martin Luther King đã từng mơ ước “con cái của những người nô lệ”.
Quả thực, Hiệp
chủng quốc Hoa Kỳ là một đất nước của người di dân, do người di dân và vì người
di dân. Ngày 4 tháng 7 vừa qua là ngày kỷ niệm đúng 240 năm Hoa Kỳ được độc lập.
Nhân dịp này, Tạp chí Time đã dành số kép ra ngày 11 và 18 tháng 7 này để ghi lại
tất cả 239 điểm sáng của đất nước này. Góp mặt trong số báo này, Giáo sư kiêm Nhà
văn gốc Việt Nam Nguyễn Việt Thanh, tác giả của quyển tiểu thuyết “The
Sympathizer” (cảm tình viên) vừa được trao tặng giải thưởng Pulitzer năm 2016,
đã nói đến vai trò của người di dân
trong việc xây dựng đất nước. Theo ông, nước Mỹ được tự do như ngày nay là nhờ
người di dân, tỵ nạn và nô lệ. Qua cuộc tranh đấu của họ để có được một chỗ đứng
trong đất nước này, người di dân đã buộc Hoa Kỳ phải viết lại Hiến Pháp của họ,
để nhìn nhận rằng mọi người đều bình đẳng như nhau và Hoa Kỳ không nên chỉ là đất
nước của người da trắng. Tác giả khẳng định: “số phận của họ (những người di
dân) cũng là số phận của Hoa Kỳ”. Trích dẫn một tác giả Mỹ gốc Phi Luật Tân nổi
tiếng trong thập niên 1950 là ông Carlos Bulosan, Giáo sư Nguyễn Thanh Việt viết:
“Chúng ta là tấm gương phản chiếu của Hoa Kỳ...Nếu chúng ta thất bại, cả Hoa Kỳ
cũng thất bại”. Ám chỉ đến óc bài ngoại của ứng cử viên Donald Trump, tác giả
cho rằng bên cạnh một “Hoa Kỳ nói nhiều ngôn ngữ khác nhau và biết lựa lời mà
nói” còn có một Hoa Kỳ khác, tức Hoa Kỳ của những người muốn dựng lên những bức
tường để bài ngoại. Đó là một Hoa Kỳ đáng sợ và nguy hiểm. Và đó là một thách đố
lớn hiện nay: “Nếu Hoa Kỳ đó chiến thắng, thì chúng ta và cả thế giới đều
thua”.
Những cuộc bắn
giết gần đây, nhứt là những vụ cảnh sát da trắng bắn người da đen và một người
da đen mới sát hại 4 cảnh sát da trắng, khiến cho nhiều người lo sợ về những
chia rẽ chủng tộc tại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhưng tôi thích cái nhìn bình
tĩnh và lạc quan của Tổng thống Barack Obama. Theo ông, Hoa Kỳ không phải là một
quốc gia bị chia rẽ vì chủng tộc và màu da: người da đen hạ sát 4 cảnh sát viên
da trắng tại Dallas không đại diện cho người da đen cũng như những người da trắng
bắn hạ người da đen không đại diện cho người da trắng. Tôi tin lời Tổng thống
Obama, bởi vì một Hoa Kỳ chia rẽ vì chủng
tộc đã không bầu một người da đen như ông lên làm nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo
thế giới tự do.
Trong mắt
tôi, Hoa Kỳ luôn vĩ đại. Vĩ đại vì tinh thần khoan nhượng, nền móng của một quốc
gia đa chủng tộc và đa văn hóa. Vĩ đại vì tinh thần huynh đệ được thể hiện qua
tấm lòng quảng đại trong hoạt động từ thiện. Trong 239 điểm sáng của Hoa Kỳ được
Tạp chí Time đề cao, tôi đặc biệt chú ý đến hoạt động từ thiện của người Mỹ.
Darren Walker, chủ tịch của sáng hội “Ford Foundation” viết rằng “từ thời các
lãnh tụ thực dân đến các tỷ phú của thời đại như Buffett, Gates và Zuckerberg,
truyền thống trao tặng đã được kết tinh trong DNA của dân tộc chúng ta”. Có lẽ
trên thế giới, không có dân tộc nào đóng góp cho công cuộc từ thiện nhiều cho bằng
Hoa Kỳ. Trong năm 2015 vừa qua, tổng số tiền người Mỹ trao tặng cho các quỹ từ
thiện lên đến 373.25 tỷ Mỹ kim; trung bình mỗi ngày người Mỹ tặng hơn một tỷ Mỹ
kim. Dĩ nhiên, cần có tiền mới có thể làm từ thiện. Nhưng với người Mỹ, ngoài
tiền bạc, còn có một món quà quý giá hơn mà họ luôn trao tặng một cách quảng đại
là thời giờ. Trong năm vừa qua, đã có khoảng 62.6 triệu người Mỹ làm thiện nguyện
ít nhứt là một lần. Truyền thống trao tặng có thể đã bắt nguồn từ Kitô Giáo, vốn
là tôn giáo của những nhà lập quốc Hoa Kỳ. Nhưng truyền thống ấy có được thăng
hoa và phát huy hay không một phần cũng nhờ “tấm lòng” của người di dân: hầu
như người di dân nào bỏ nước ra đi cũng đều có một trái tim rộng mở luôn nghĩ đến
những người đang sống trong nỗi cơ cực mà chính mình đã từng nếm trải.
Hoa Kỳ không
chỉ có súng đạn. Hoa Kỳ không chỉ là nơi dân chúng tự trang bị cho mình đến 300
triệu khẩu súng đủ loại. Hoa Kỳ không chỉ là nơi mà trung bình cứ 61 giờ lại xảy
ra một vụ bắn giết. Với truyền thống trao tặng được người di dân nhào nặn và
phát huy, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục là một đất nước vĩ đại.
Vĩ đại vì
truyền thống trao tặng chớ không phải vĩ đại vì thói bá quyền và cướp giựt như
Trung Cộng hiện nay. Hôm thứ Ba 12 tháng 7 vừa qua, Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế tại
Hague, Hòa Lan đã đưa ra phán quyết về cuộc tranh chấp Biển Đông giữa Phi Luật
Tân và Trung Cộng. Kết quả được hầu như toàn thế giới chờ đợi là: việc Trung Cộng
xâm chiếm lãnh hải và xây dựng các cơ sở trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông là một
hành động bất hợp pháp!
Bộ mặt thô bỉ
và vô liêm sỉ của Trung Cộng “vĩ đại” một lần nữa được phơi bày: bất chấp phán
quyết của Tòa án Quốc tế, bất chấp Công pháp Quốc tế, bất chấp dư luận thế giới,
Trung Cộng vẫn tuyên bố chủ quyền trên những vùng lãnh hải hoặc thuộc về một quốc
gia khác hoặc còn đang tranh chấp.
Thái độ bá
quyền và hung hăng của Trung Cộng đối với các nước láng giềng phản ảnh cách đối
xử của họ đối với nhiều thành phần sắc tộc khác nhau trong nước và mọi người
dân nói chung. Khoan nhượng và tương kính hoàn toàn là những ý niệm xa lạ đối với
những con người chỉ biết sống theo nguyên tắc được đồ tể Mao Trạch Đông khởi xướng:
“quyền lực xuất phát từ lò thuốc súng”. Trong nước, Tập Cận Bình dùng dùi cui,
báng súng và nhà tù để đàn áp người dân. Bên ngoài, ông đưa quân đội đến cưỡng
chiếm lãnh hải của các nước láng giềng. Trong nước, quyền sinh sát của ông ngày
càng được củng cố. Ngoài nước, đế quốc Trung Cộng ngày càng mở rộng. Nhưng liệu
có phải càng có quyền lực trong tay, nhứt là quyền lực từ lò thuốc súng mà con
người càng trở nên “vĩ đại” không?
Trong bối cảnh
của xã hội đa chủng tộc và văn hóa của
Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, lắng nghe lời ca “Ngày vinh quang đã đến” trong bài quốc ca của Pháp và chiêm ngắm bức tượng
nữ thần Tự Do tôi nghĩ đến một thứ vinh quang và vĩ đại khác: con người chỉ thực
sự vĩ đại khi họ biết ra khỏi vỏ ốc hẹp hòi ích kỷ của mình để sống khoan nhượng,
nghĩa là chấp nhận và tôn trọng quyền lợi, tiếng nói và những khác biệt của người
khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét