Chu Thập
23.10.12
Lúc nhỏ, tôi leo
trèo như khỉ. Cao ngất như cây dừa tôi cũng trèo. Gai góc như bụi tre, tôi cũng
leo. Hễ có trái cây và nhứt là ổ chim, thì dù có hiểm hóc cheo leo cỡ nào, tôi
cũng phải đạt tới “mục tiêu” cho bằng được. Cũng may, sinh nghề nhưng không đến
nổi tử nghiệp, vài lần té cây chỉ để lại năm ba vết sẹo trên người chớ chưa biến
tôi thành phế nhân.
Tuy nhiên, cũng có
một lần té ngã đã in đậm trong ký ức của tôi. Tôi không nhớ rõ lúc đó tôi đã được
mấy tuổi. Một buổi sáng nọ, tôi leo lên cây đào tiên của người hàng xóm. Trái
đào tiên mà người Bắc gọi là “lý”, tuy không mặn mà như đào đỏ hay trái mận (mà
người Bắc gọi là roi), nhưng có mùi vị thơm ngọt lạ thường. Có lẽ vì hương vị
này mà người miền Trung quê tôi gọi nó là “đào tiên” chăng. Cho đến ngày nay, nỗi
nhớ quê hương của tôi cũng còn đượm mùi “đào tiên”. Cách đây 2 năm, nhân dịp đi
nghỉ ở Port Douglas, Bắc Úc, tình cờ nhìn thấy một cây đào tiên và ngửi được
hương vị thơm ngon của những trái vừa chín, tôi thấy như mình đã trở về quê
hương. Tôi bèn hái một trái, thưởng thức hương vị của nó và cất lấy hột để mang
về trồng. Nay, tuy chưa ra trái, nhưng cây đào tiên ở phía trước nhà cũng đủ để
giúp làm vơi đi nỗi nhớ quê hương trong tôi và dĩ nhiên gợi lại bài học nhớ đời
của tôi.
Cây đào tiên của
người hàng xóm ở quê tôi không cao lớn lắm. Và đó chính là lý do khiến tôi ỷ y
và thiếu đề cao cảnh giác. Ở độ cao có lẽ không quá 3 thước, do đu phải một
cành mềm, tôi lộn nhào và té xuống đất. Tôi chưa một lần lên cơn đau tim nào,
nhưng có lẽ cái cảm giác được những người đau tim tả lại cũng không khác với
cơn đau quằn quại của tôi khi bị trượt té từ cây đào tiên bao nhiêu. Lúc đó có
người tình cờ đi qua, thấy tôi ôm bụng nằm sấp và biết tôi té cây, mới bảo tôi
tuột “giây lưng quần” ra. Thời đó, trẻ con như tôi mặc quần “xà lỏn” không có
giây thun, mà chỉ được thắt lại bằng thứ giây mà người Bắc gọi là “giải rút”.
Tôi làm theo và thấy cơn đau dịu lại. Chẳng có ai giúp một tay, cho nên tôi phải
cố gắng hết sức để bò về nhà và tiếp tục ôm bụng cho tới khi được mẹ tôi phát
giác. Bà liền lấy dầu cù là xoa khắp nơi trong người tôi. Tôi không biết do tác
dụng của loại dầu vạn năng này hay do bàn tay thoa bóp và âu yếm của mẹ mà tôi
cảm thấy cơn đau như hoàn toàn biến mất. Vốn có chủ trương cho tôi được tự do “lêu
lổng” cho nên mẹ tôi chẳng có lên giọng mắng
mỏ gì cả. Bà chỉ ôn tồn nhắn nhủ: “Con ơi, trèo cao thì té nặng đó, nghe
chưa”. Biết mình có lỗi nhưng tôi cũng ráng chống chế: “Nhưng cây đào tiên bên
nhà Cậu Bảy đâu có cao!”
Về sau, khi tôi tỏ
dấu biết suy nghĩ đôi chút, thấy người tôi bị trày trụa do leo cây, mẹ tôi chuyển
qua giọng “luân lý quốc văn giáo khoa thư”. Cùng với thành ngữ “trèo cao té nặng”,
mẹ tôi thòng thêm một câu: “Càng cao danh vọng càng đầy gian nan”.
Bà mẹ của nhà thơ
Phùng Quán, thời Nhân Văn Giai Phẩm ngoài Bắc, dạy ông sống “chân thật” ngay từ
tuổi thơ. Ông đã ghi nhớ lời mẹ dạy và trải bày tâm niệm của mình trong bài thơ
bất hủ “Lời mẹ dặn”. Mahatma Gandhi,
lỡ có một lần nói dối bị mẹ la rầy, đã thề thốt suốt đời chỉ nói sự thật và đề
ra chủ trương tranh đấu bất bạo động dựa trên thuyết mà ông gọi là “Satyagraha” (sức mạnh của sự thật).
Tôi không phải là
một đứa trẻ “dễ dạy” cho nên chưa xây dựng được một chủ thuyết hay một tác phẩm
để đời nào dựa trên lời mẹ dạy. Dù sao, lời mẹ dạy vẫn cứ đeo đuổi tôi suốt đời.
Người mẹ nào mà chẳng muốn cho con thành danh, bởi vì danh phận của con cũng
làm cho cha mẹ được thơm lây. Nhưng khi nói “càng cao danh vọng càng đầy gian
nan”, dường như mẹ tôi cũng muốn cảnh cáo tôi rằng để “leo lên” được bất cứ bậc
thang danh vọng nào, cần phải trải qua gian nan. Tôi thấy rõ chân lý này trong
việc học hành. Thời trung học, tôi đã cố gắng hết mình để mỗi cuối năm đều mang
phần thưởng về cho cha mẹ xem. Để được thành tích tốt, tôi ganh đua từng điểm
và dĩ nhiên với rất nhiều gian nan.
Bài học leo trèo
cũng cho tôi thấy điều đó. Tôi nhận thấy lên đến đỉnh cao là điều đã khó, mà lại
càng khó hơn khi phải leo xuống. Lúc leo lên, người ta không màng tới độ cao. Đến
khi yên vị trên cao rồi nhìn xuống, tự nhiên mới thấy sợ và có khi sợ đến nỗi
không dám xuống. Trong xóm giáo của tôi, một trong những nơi tôi không thể quên
được là tháp chuông giáo đường. Nhà thờ giáo xứ của tôi được xây cất theo lối
Gothic, với tháp chuông cao vút. Đây là nơi “lẩn trốn” an toàn nhứt dành cho những
đứa trẻ thích trốn học và cũng thích ngủ hơn là “đi lễ” vào lúc 4 giờ sáng mà
chẳng hiểu gì hết. Để lên đến tháp chuông, phải leo lên một cái thang dài được
bắc dựa vào tường. Leo lên thì không sao. Đến khi từ trên cao nhìn xuống tự
nhiên thấy ớn xương sống và chẳng muốn leo xuống chút nào.
Cái cảm giác leo
lên cao mà không muốn hay không dám xuống đó thường làm cho tôi liên tưởng đến
những người đã đạt đến đỉnh cao của quyền lực và danh vọng. Họ phải trải qua biết
bao gian nan mới lên đến đỉnh cao ấy. Và để “trụ trì” trên đỉnh cao danh vọng ấy
họ phải chấp nhận làm mục tiêu của không biết bao nhiêu búa rìu dư luận. Danh vọng
gắn liền với sự tán thưởng của người đời. Hôm nay người ta đưa lên ngày mai người
ta kéo xuống. Đó là chuyện thường tình. Đã leo lên đài danh vọng là phải chấp
nhận áp lực và dằn xóc của dư luận. Tôi nghĩ đến cái chức tổng thống của Hiệp
chủng quốc Hoa kỳ. Trên thế giới này, còn ai có quyền lực và danh vọng cho bằng
tổng thống Hoa kỳ. Nhưng như người La mã nói “danh vọng là gánh nặng” (Honor onus), chẳng có ai trên
thế giới này phải mang lấy trách nhiệm nặng nề như tổng thống Hoa kỳ. Chỉ cần
nhìn lại sự chuyển đổi màu tóc của một số tổng thống Mỹ gần đây để cảm nhận được
phần nào những “gian nan” và trách nhiệm đè nặng lên họ. Tạp chí Time trong số
ra ngày 10 tháng 9 vừa qua đã đặc biệt liên kết mái tóc của ba vị tổng thống gần
đây của Hoa kỳ là Bill Clinton, George W. Bush và Barack Obama với trách nhiệm
đè nặng trên ba ông. Năm 1992, khi mới bước vào Tòa Bạch Ốc, mái tóc của tổng
thống Bill Clinton vẫn còn xanh mướt. Chỉ 4 năm sau, nó đã thành trắng bạc. Nơi
tổng thống George W. Bush, người ta lại càng thấy rõ hơn sự ngả mầu mau chóng của
mái tóc. Riêng đương kiêm tổng thống Barack Obama, chỉ mới sau một nhiệm kỳ mà
mái đầu đen nhánh của ông cũng đã biến thành muối tiêu. Đành rằng tuổi tác là yếu
tố chính làm cho tóc ngả mầu. Nhưng theo giải thích của bà Elaine Fuchs, một
nhà nghiên cứu về tóc thuộc trường đại học Rockfeller, những căng thẳng trong
cuộc sống cũng có thể làm cho tóc mau bạc. Các cuộc tấn công khủng bố, cuộc chiến
với sự tham gia của quân đội Mỹ tại một số quốc gia, vị thế lãnh đạo thế giới của
Hoa kỳ, kinh tế suy trầm, cuộc vận động để được tái cử...chỉ có phép lạ hoặc phải
có một thứ “gen” di truyền đặc biệt lắm một tổng thống Mỹ mới giữ nguyên được
mái đầu xanh của mình trước những căng thẳng do những trách nhiệm trên đây tạo
ra. Thủ tướng Julia Gillard quả là người may mắn, bởi vì dù có trải qua căng thẳng
đến cỡ nào, tối về vẫn được người bạn tình o bế mái tóc, cho nên chẳng có sợi
tóc nào dám...bạc!
Tôi thầm phục những
người được bầu làm tổng thống Hoa kỳ. Họ leo lên được đài quyền lực và danh vọng
là nhờ tài năng, trí tuệ và những nỗ lực phi thường của họ. Tham vọng quyền lực
và danh vọng là điều ít hay nhiều, kín đáo hay lộ liễu, ai cũng có. Có khác
nhau chăng là con đường dẫn đến quyền lực và danh vọng. Có người đi theo con đường
bình thường của gian nan, thử thách và phấn đấu. Có người lại chọn con đường tắt
của lừa bịp, dối trá. Lịch sử là cuốn sách luôn được mở ra cho mọi người xem.
Đã là sự thật thì dù có che đậy tài tình đến đâu trước sau gì cũng lộ ra. Cứ tưởng
Nguyễn Ái Quốc là bút hiệu tài ba sắc bén của một Hồ Chí Minh. Nào ngờ đâu một
cáo già thất học Hồ Chí Minh đã cướp công của một nhóm trí thức uyên bác! Cứ tưởng
có một nhà báo Trần Dân Tiên đã bỏ công nghiên cứu để viết về tiểu sử, cuộc đời
ngoại hạng và nhân cách phi thường của chủ tịch Hồ Chí Minh. Ai ngờ cháy nhà ra
mặt chuột, có người đã tự mình viết tiểu sử của mình và đưa mình lên chín tầng
mây. Thứ danh vọng được tiếm đoạt bằng gian dối và lừa bịp ấy, may ra chỉ có những
người không còn giây thần kinh xấu hổ mới tiếp tục đề cao và sùng bái. Khốn nỗi,
“người cha gia dân tộc” gian dối và lừa bịp ấy lại sản sinh ra cả một thế hệ
ngày nay cũng chỉ biết sống và hành xử bằng dối trá. Không nói đến chuyện tiến
sĩ giả hay tiến sĩ không có thực chất “chạy đầy đường”, không nói đến kế hoạch
mỗi năm đào tạo 2000 tiến sĩ để qua mặt các nước văn minh, chuyện gần đây nhứt
cũng đủ để làm cho một người Việt nam còn biết xấu hổ phải muốn độn thổ. Đó là
chuyện ông tiến sĩ Hoàng Quang Thuận, viện trưởng Viện công nghệ viễn thông, đã
sáng tác được ba tập thơ mà ông gọi là “thơ thần phật”, tức do Phật linh ứng.
Trong nước đã tổ chức không biết bao nhiêu buổi học tập thơ của ông. Rồi chính
ông cũng đã tự mình gởi 2 tập thơ đến Thụy Điển để tranh giải Nobel Văn Chương.
Thế rồi, lại cháy nhà ra mặt chuột, nhiều người đã khám phá ra rằng ông tiến sĩ
này đã “đạo” hầu như nguyên văn thơ của ông Trần Trương, trưởng ban quản lý
chùa Yên Tử. Cũng may, năm nay Ủy ban Nobel đã không kịp trao tặng giải cho ông
Hoàng Quang Thuận. Nếu không thì người Việt khắp nơi chỉ còn biết độn thổ vì xấu
hổ mà thôi!
Về chuyện này, có
lẽ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam nên học bài học của Hoa kỳ. Mới đây, Cơ
quan chống xử dụng thuốc kích thích trong thể dục thể thao của Hoa kỳ (gọi tắt
là USADA) đã cho công bố cả ngàn trang chứng cớ về việc tay đua Lance Amstrong,
người Mỹ, trong suốt quá trình tiến lên đài danh vọng với 7 lần vô địch vòng
đua nước Pháp, không những đã xử dụng thuốc kích thích mà còn cung cấp thuốc
cho các đồng đội của mình. Chỉ trong một ngày, 7 huy chương vàng vòng đua nước
Pháp của Armstrong đều bị tước bỏ! Từ đỉnh cao của danh vọng, tay đua này đã
rơi xuống vực thẳm của nhục nhã. Con đường gian dối và lừa bịp nào cũng đều kết
thúc như thế. Armstrong không chỉ mất chức vô địch, mất ngân quỹ kết xù được
xây dựng trên tiếng tăm giả tạo của anh, anh đánh mất chính danh dự và phẩm
cách của mình. Có lẽ lúc nhỏ anh không biết leo trèo như tôi. Bằng không thì
anh cũng đã được mẹ anh cảnh cáo: “Con ơi, trèo cao té nặng đó, nghe con”.
Cách đây không
lâu, tôi có dịp tham dự một thánh lễ trong đó có một số thiếu nhi được tham dự
nghi thức “rước lễ” lần đầu. Chẳng có gì để nói về nghi thức tôn giáo này, ngoại
trừ vào cuối lễ, bỗng thấy xuất hiện một thanh niên bị hội chứng Down. Trong
khi các thiếu nhi vừa hát vừa diễn tả ý nghĩa của bài hát bằng cử điệu, người
thanh niên cũng dùng tay không của mình để chơi đàn guitar. Cử chỉ của anh
trông cũng nhuần nhuyễn như một nghệ sĩ chuyên nghiệp. Rõ ràng là anh chẳng
màng gì đến những người xung quanh. Cười nhạo hay không, không cần biết. Anh đã
sống hết mình trong giây phút ngắn ngủi ấy. Anh hài lòng và hạnh phúc với sự biểu
diễn của mình.
Tôi ra khỏi nhà thờ
và mang hình ảnh của anh về nhà cho đến hôm nay. Có lúc tôi mong được sống như
người thanh niên mắc hội chứng Down này: sống thật và hết mình với con người của
mình để không phải bận tâm đến lời khen tiếng chê của người khác hay chạy theo
thứ danh vọng giả tạo được trao tặng hôm nay và ngày mai bị tước đoạt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét