Chu Thập
8.7.16
Một tuần lễ
sau khi quân đội Iraq chiếm lại thành phố Fallujah từ tay “Quốc gia Hồi giáo”, các cơ quan truyền thông
thế giới đã cho phổ biến rộng rãi một
băng hình về sự đổ nát của thành phố cũng như sự tàn ác của tổ chức Hồi giáo cực
đoan này.

Băng hình được
phổ biến sau khi Fallujah được giải phóng cho thấy trong hơn 2 năm chiếm giữ
thành phố, “Quốc gia Hồi giáo” đã dựng lên 5 nhà tù với những phòng nhỏ như những
chiếc lồng để nhốt súc vật. Trong suốt 2 năm vừa qua, người dân phải sống dưới
những quy định vô cùng khắt nghiệt theo luật Hồi giáo. Nhiều người bị giam tù
như súc vật chỉ vì một vi phạm nhỏ như hút một điếu thuốc. Đáng thương nhứt có
lẽ là những thiếu nữ người Yazidi bị “Quốc gia Hồi giáo” bắt giữ làm nô lệ tình
dục, bị chuyền tay từ người này sang ngước khác và sau đó bị mang ra bán đấu
giá như súc vật.
Cảnh hoang
tàn đổ nát của thành phố Fallujah và vô số những tội ác của “Quốc gia Hồi giáo”
được phơi bày sau khi thành phố này được giải phóng, không khỏi khiến tôi liên
tưởng đến ngày các trại tập trung của Đức Quốc Xã được quân đội Đồng minh giải
phóng. Đặc biệt trong những ngày vừa qua, sự ra đi của ông Elie Wiesel, một
trong những nhân chứng có thế giá nhứt về
các trại tập trung của Đức Quốc Xã, lại càng là dịp để thế giới hâm nóng lại ký
ức về tội ác của đồ tể Hitler và Đức Quốc Xã cũng như vô số tội ác khác trong lịch
sử nhân loại. Khác nhau về hoàn cảnh, khác nhau về mức độ, khác nhau về hình thức...nhưng
tội ác của “Quốc gia Hồi giáo”, tội ác của Đức Quốc Xã đối với dân tộc Do Thái,
tội ác của các chế độ cộng sản đối với người đồng bào ruột thịt cũng như với
toàn thể nhân loại...tất cả đều giống nhau ở chỗ: thế giới sẽ lập lại tội ác nếu
tội ác bị quên đi! Đó là thông điệp mà Wiesel muốn nhắn gởi cho thế giới qua chứng
từ của ông về cuộc diệt chủng đối với người Do Thái do Hitler và Đức Quốc Xã chủ
xướng.
Chào đời tại
thành phố Sighet, Lỗ Ma Ni ngày 30 tháng 9 năm 1928, Elie Wiesel nổi tiếng với
tác phẩm có tựa đề “Night” (Đêm). Với
quyền hồi ký dài khoảng hơn 100 trang này, Wiesel đã kể lại những trải nghiệm của
ông trong các trại tập trung Đức Quốc Xã trong những năm cuối của Đệ nhị Thế
chiến. Là một thiếu niên 15 tuổi, ông đã chứng kiến cảnh Hung Gia Lợi sát nhập
thành phố của ông và cưỡng bách người Do Thái trong thành phố phải sống trong
những khu biệt lập (Ghetto). Sau đó, cùng với cha mẹ và anh chị em, ông bị bắt,
lùa lên những chiếc xe chở súc vật và đưa đến trại Auschwitz, Ba Lan. Tại đây,
sau khi đã bị tách ra khỏi gia đình, mẹ và em gái út của ông đã bị đưa vào lò
hơi ngạt. Sau một thời gian, cùng với hàng ngàn tù nhân khác, mặc dù chỉ còn là
những “thây chết biết đi” Wiesel và cha
ông bị cưỡng bách phải đi bộ đến trại Buchenwald bên Đức. Tại đây, vì bị kiết lỵ
và nhứt là bị các cai tù Đức Quốc Xã đánh đập, cha ông đã qua đời.
Tháng Tư năm
1945, năm Wiesel lên 16 tuổi, trại tập trung cuối cùng nơi ông bị giam giữ đã
được quân đội đồng minh giải phóng. Cậu thiếu niên 16 tuổi đã rời khỏi trại tập
trung Buchenwald với cánh tay bị các cai tù xâm lên con số “A-7713”. Cùng với một số người sống sót khác, Wiesel đã
xin đến Pháp. Tại đây, ông đã theo học tại Đại học Sorbonne và sau đó làm ký giả
cho một số tờ báo Pháp và Israel. Năm 1955, ông di cư sang Hoa Kỳ. Cuối thập
niên 1950, ông hoàn thành tác phẩm “Night”. Năm 1960 tác phẩm được vợ ông là bà
Marion Rose, một người cũng sống sót từ các trại tập trung Đức Quốc Xã, giúp dịch
sang Anh Ngữ .
Năm 1978,
Wiesel được Tổng thống Jimmy Carter bổ nhiệm vào Ủy ban Xây dựng Bảo tàng viện
tưởng nhớ các nạn nhân Đức Quốc Xã tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Một trong những
câu nói đáng ghi nhớ của ông đã được khắc trên cửa ra vào của Bảo tàng viện: “Vì người chết và người đang sống, chúng ta
phải làm chứng”.
Năm 1986, ông
được trao tặng Giải Nobel Văn Chương. Ủy ban Nobel gọi ông là “một sứ giả của
nhân loại”. Trong bài diễn văn nhận giải thưởng cao quý này, ông nói: “Tôi đã cố gắng giữ cho ký ức luôn được sống
động; tôi đã cố gắng chiến đấu để chống lại những ai muốn quên đi, bởi vì nếu
chúng ta quên lãng, chúng ta cũng mắc tội, chúng ta trở thành đồng lõa” với
tội ác...
(x.http://www.nytimes.com/2016/07/03/world/europe/elie-wiesel-auschwitz-survivor-and-nobel-peace-prize-winner-dies-at-87)
Hôm thứ Bảy
2 tháng 7 vừa qua, trước tin ông ra đi, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã gọi
ông là một “đài tưởng niệm sống” và
là “lương tâm của thế giới”.
Theo tôi, có
lẽ đây là hai tước hiệu chính xác nhứt để nói lên vai trò chứng nhân của ông
Wiesel không những về tội ác của Hitler và Đức Quốc Xã đối với dân tộc Do Thái,
mà còn về vô số tội ác của con người xuyên qua mọi thời đại và bất cứ nơi nào
trên thế giới. Ông đã gióng lên tiếng kêu thảm thiết và không ngừng nghỉ để
đánh thức nhân loại khỏi cơn mê ngủ trong sự dửng dưng và vô cảm trước tội ác.
Không phải
trong một sớm một chiều mà tiếng kêu của ông đã được lắng nghe. Năm 1956, bằng
tiếng Do Thái, ông đã viết cuốn hồi ký dài 800 trang. Sau đó, quyển hồi ký đã
được rút ngắn lại còn 127 trang và được dịch sang tiếng Pháp với tựa đề “La Nuit”. Một năm sau đó, ấn bản Anh Ngữ
mới xuất hiện: nhà xuất bản của Mỹ Hill & Wang chỉ trả trước cho ông đúng
100 Mỹ kim. Trong 18 tháng đầu, tác phẩm chỉ bán được đúng 1.046 cuốn. Trong một
cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí Time năm 1985, Wiesel nói rằng “Lúc đó, chuyện
(Đức quốc xã) tế sát người Do Thái (Holocaust) không phải là điều người ta muốn
biết”.
Bước ngoặt lớn
chỉ được mở ra cho Wiesel vào năm 1960 khi đồ tể Adolf Eichmann bị Israel truy
tầm và bắt giữ tại Á Căn Đình. Tội ác của Đức Quốc Xã dần dần được phơi bày rộng
rãi. Tiếng nói của Wiesel bắt đầu được lắng nghe và ông đã trở thành hiện thân
của các nạn nhân trong cuộc diệt chủng đối với người Do Thái. Không mấy chốc
tác phẩm “Night” của Wiesel đã được
bán ra trên cả chục triệu cuốn. Riêng nữ hoàng hội thoại truyền hình Oprah
Winfrey, sau khi chính thức đưa tác phẩm vào thư viện riêng của cô và tháp tùng
Wiesel đi thăm viếng trại tập trung Auschwitz, đã giúp bán thêm 3 triệu cuốn nữa.
Tác phẩm đã được dịch sang không dưới 40 thứ tiếng khác và được đưa vào chương
trình trung học tại nhiều nơi trên thế giới, nhứt là tại Hoa Kỳ.
Tiếng kêu thảm
thiết mà Wiesel muốn gióng lên cho cả thế giới được tóm gọn trong chữ “Đêm” được ông dùng để diễn tả những hành
động tàn ác vô nhân đạo tưởng như không có bút mực nào có thể diễn tả được:
“Tôi sẽ không bao giờ quên được đêm ấy, đêm đầu
tiên trong trại tập trung, đêm đã biến cuộc sống của tôi thành một đêm dài gấp
7 lần.
Tôi sẽ không bao giờ quên được làn khói ấy (làn khói quyện trên những lò
hơi ngạt, nơi mẹ và em gái của ông bị tế sát)
Tôi sẽ không bao giờ quên được những gương mặt nhỏ bé của các trẻ em mà tôi
đã thấy biến thành khói dưới một bầu trời câm lặng.
Tôi sẽ không bao giờ quên được những làn khói đã vĩnh viễn thiêu rụi niềm
tin của tôi.
Tôi sẽ không bao giờ quên được sự thinh lặng của bóng đêm đã vĩnh viễn cướp
đi khát vọng muốn sống của tôi.
Tôi sẽ không bao giờ quên được những giây phút đã sát hại Thượng Đế của tôi
và linh hồn tôi cũng như biến những ước mơ của tôi thành tro bụi.
Tôi sẽ không bao giờ quên được những điều ấy, ngay cả khi tôi bị kết án phải
sống mãi như chính Thượng Đế.
Không bao giờ”.
Wiesel đã thề
thốt như thế là vì con người vốn dễ quên. Và vì dễ quên cho nên cũng trở nên vô
cảm, nhứt là vô cảm trước tội ác. Hồi ký của Wiesel mở đầu bằng chứng từ của một
người bạn thiếu thời của ông tên là Moishe. Năm 1941, cùng với nhiều người Do
Thái khác trong thành phố Sighet, người thiếu niên Moishe đã bị cảnh sát Hung
Gia Lợi lùa lên những chiếc xe chở súc vật và mang đến vùng Galicia. Lúc đầu,
những người Do Thái còn lại trong thành phố có tỏ ra quan tâm đến số phận của
những người bị bắt đem đi. Nhưng rồi sau đó, cuộc sống diễn ra một cách bình
thường. Chẳng ai còn màng đến những người đã ra đi. Thế rồi, một thời gian sau,
Wiesel gặp lại Moishe trong hội đường. Moishe kể lại rằng cùng với những người
Do Thái khác, cậu đã được đưa ra khỏi biên giới Hung Gia Lợi và khi vào lãnh thổ
Ba Lan thì được giao cho mật vụ Gestapo của Đức Quốc Xã. Từ xe lửa, nhóm người
Do Thái được đưa lên những chiếc tải để được chở ra một khu rừng. Tại đây, họ
được lệnh đào những cái hố rộng. Người lớn lần lượt bị mang ra bắn và vùi xuống
hố. Trẻ con bị tung lên để làm bia cho mật vụ Gestapo bắn như bắn chim. Moishe
đã sống sót như một phép lạ: cậu đã bị bắn vào chân, các lý hình tưởng cậu đã
chết cho nên bỏ đi. Moishe đã đi khắp thành phố để kể lại câu chuyện của mình.
Nhưng chẳng có người Do Thái nào, ngay cả Wiesel tin lời cậu. Họ cho rằng cậu
là một người điên. Mãi cho đến năm 1944, khi bị bắt đưa đi Auschwitz, mọi người
mới nhận thức được rằng Moishe đã không nói dối: cậu là một nhân chứng không được
lắng nghe!
Theo Wiesel,
cộng đồng Do Thái ở Sighet đã tỏ ra vô cảm và dửng dưng trước tội ác được người
thiếu niên Moishe kể lại. Nhưng có lẽ khủng khiếp hơn chính là thái độ vô cảm
và dửng dưng của con người khi tận mắt chứng kiến tội ác. Trong cuộc “tử hành”
(Death march) từ Ba Lan về Đức trong những ngày cuối của Đệ nhị Thế chiến, các
tù nhân vì đói lả đã tranh nhau từng mảnh bánh vụn. Những người qua lại đã ném
cho họ một ít bánh vụn mà không biểu lộ một chút kính trọng, cảm thông hay xót
thương nào. Họ làm cử chỉ bố thí ấy như thể quăng mồi cho súc vật. Về sau, khi
sống tại Paris, một hôm chứng kiến cảnh một phụ nữ giàu sang ném từng đồng xu
nhỏ cho những đứa trẻ ăn xin giành giựt nhau, nhớ lại sự đối xử của khách qua
đường đối với chính mình, Wiesel đã đến yêu cầu người đàn bà ngưng hành động
phân phát của bà. Người đàn bà tỉnh bơ trả lời: ai cấm tôi làm việc bác ái!
Wiesel đã
ghi lại chứng từ của ông để gởi đi một thông điệp: đừng bao giờ quên tội ác để
không phải rơi vào thái độ vô cảm trước tộc ác. Là một người tỵ nạn cộng sản,
đã từng nếm mùi thiên đàng cộng sản, đã từng nghe không biết bao nhiêu chứng từ
về tội ác mà người cộng sản Việt Nam đã và đang gây ra cho dân tộc, tôi cảm nhận
được một cách dễ dàng thông điệp của ông: tôi sẽ dễ dàng trở nên vô cảm trước tội
ác và nỗi khổ của người đồng loại nếu ký
ức của tôi về tội ác bị lu mờ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét