Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2016

Hâm nóng ký ức


Chu Thập
8.7.16
Một tuần lễ sau khi quân đội Iraq chiếm lại thành phố Fallujah từ tay  “Quốc gia Hồi giáo”, các cơ quan truyền thông thế giới đã cho phổ biến rộng rãi  một băng hình về sự đổ nát của thành phố cũng như sự tàn ác của tổ chức Hồi giáo cực đoan này.
Fallujah là một thành phố nằm ở phía Bắc Iraq. Đây là thành phố đầu tiên của Iraq rơi vào tay của “Quốc gia Hồi giáo” dạo tháng Giêng năm 2014. Từ 320 ngàn dân vào năm 2010, dân số của thành phố nay chỉ còn khoảng trên dưới 50 ngàn người. Một phần bỏ trốn được. Một phần bị thiệt mạng trong các cuộc giao tranh và dĩ nhiên có rất nhiều người đã bị “Quốc gia Hồi giáo” sát hại bằng nhiều cách khác nhau.
Băng hình được phổ biến sau khi Fallujah được giải phóng cho thấy trong hơn 2 năm chiếm giữ thành phố, “Quốc gia Hồi giáo” đã dựng lên 5 nhà tù với những phòng nhỏ như những chiếc lồng để nhốt súc vật. Trong suốt 2 năm vừa qua, người dân phải sống dưới những quy định vô cùng khắt nghiệt theo luật Hồi giáo. Nhiều người bị giam tù như súc vật chỉ vì một vi phạm nhỏ như hút một điếu thuốc. Đáng thương nhứt có lẽ là những thiếu nữ người Yazidi bị “Quốc gia Hồi giáo” bắt giữ làm nô lệ tình dục, bị chuyền tay từ người này sang ngước khác và sau đó bị mang ra bán đấu giá như súc vật.
Cảnh hoang tàn đổ nát của thành phố Fallujah và vô số những tội ác của “Quốc gia Hồi giáo” được phơi bày sau khi thành phố này được giải phóng, không khỏi khiến tôi liên tưởng đến ngày các trại tập trung của Đức Quốc Xã được quân đội Đồng minh giải phóng. Đặc biệt trong những ngày vừa qua, sự ra đi của ông Elie Wiesel, một trong những nhân chứng có thế giá nhứt  về các trại tập trung của Đức Quốc Xã, lại càng là dịp để thế giới hâm nóng lại ký ức về tội ác của đồ tể Hitler và Đức Quốc Xã cũng như vô số tội ác khác trong lịch sử nhân loại. Khác nhau về hoàn cảnh, khác nhau về mức độ, khác nhau về hình thức...nhưng tội ác của “Quốc gia Hồi giáo”, tội ác của Đức Quốc Xã đối với dân tộc Do Thái, tội ác của các chế độ cộng sản đối với người đồng bào ruột thịt cũng như với toàn thể nhân loại...tất cả đều giống nhau ở chỗ: thế giới sẽ lập lại tội ác nếu tội ác bị quên đi! Đó là thông điệp mà Wiesel muốn nhắn gởi cho thế giới qua chứng từ của ông về cuộc diệt chủng đối với người Do Thái do Hitler và Đức Quốc Xã chủ xướng.
Chào đời tại thành phố Sighet, Lỗ Ma Ni ngày 30 tháng 9 năm 1928, Elie Wiesel nổi tiếng với tác phẩm có tựa đề “Night” (Đêm). Với quyền hồi ký dài khoảng hơn 100 trang này, Wiesel đã kể lại những trải nghiệm của ông trong các trại tập trung Đức Quốc Xã trong những năm cuối của Đệ nhị Thế chiến. Là một thiếu niên 15 tuổi, ông đã chứng kiến cảnh Hung Gia Lợi sát nhập thành phố của ông và cưỡng bách người Do Thái trong thành phố phải sống trong những khu biệt lập (Ghetto). Sau đó, cùng với cha mẹ và anh chị em, ông bị bắt, lùa lên những chiếc xe chở súc vật và đưa đến trại Auschwitz, Ba Lan. Tại đây, sau khi đã bị tách ra khỏi gia đình, mẹ và em gái út của ông đã bị đưa vào lò hơi ngạt. Sau một thời gian, cùng với hàng ngàn tù nhân khác, mặc dù chỉ còn là những “thây chết biết đi”  Wiesel và cha ông bị cưỡng bách phải đi bộ đến trại Buchenwald bên Đức. Tại đây, vì bị kiết lỵ và nhứt là bị các cai tù Đức Quốc Xã đánh đập, cha ông đã qua đời.
Tháng Tư năm 1945, năm Wiesel lên 16 tuổi, trại tập trung cuối cùng nơi ông bị giam giữ đã được quân đội đồng minh giải phóng. Cậu thiếu niên 16 tuổi đã rời khỏi trại tập trung Buchenwald với   cánh tay bị các cai tù xâm lên con số “A-7713”.  Cùng với một số người sống sót khác, Wiesel đã xin đến Pháp. Tại đây, ông đã theo học tại Đại học Sorbonne và sau đó làm ký giả cho một số tờ báo Pháp và Israel. Năm 1955, ông di cư sang Hoa Kỳ. Cuối thập niên 1950, ông hoàn thành tác phẩm “Night”. Năm 1960 tác phẩm được vợ ông là bà Marion Rose, một người cũng sống sót từ các trại tập trung Đức Quốc Xã, giúp dịch sang Anh Ngữ .
Năm 1978, Wiesel được Tổng thống Jimmy Carter bổ nhiệm vào Ủy ban Xây dựng Bảo tàng viện tưởng nhớ các nạn nhân Đức Quốc Xã tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Một trong những câu nói đáng ghi nhớ của ông đã được khắc trên cửa ra vào của Bảo tàng viện: “Vì người chết và người đang sống, chúng ta phải làm chứng”.
Năm 1986, ông được trao tặng Giải Nobel Văn Chương. Ủy ban Nobel gọi ông là “một sứ giả của nhân loại”. Trong bài diễn văn nhận giải thưởng cao quý này, ông nói: “Tôi đã cố gắng giữ cho ký ức luôn được sống động; tôi đã cố gắng chiến đấu để chống lại những ai muốn quên đi, bởi vì nếu chúng ta quên lãng, chúng ta cũng mắc tội, chúng ta trở thành đồng lõa” với tội ác...
(x.http://www.nytimes.com/2016/07/03/world/europe/elie-wiesel-auschwitz-survivor-and-nobel-peace-prize-winner-dies-at-87)
Hôm thứ Bảy 2 tháng 7 vừa qua, trước tin ông ra đi, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã gọi ông là một “đài tưởng niệm sống” và là “lương tâm của thế giới”.
Theo tôi, có lẽ đây là hai tước hiệu chính xác nhứt để nói lên vai trò chứng nhân của ông Wiesel không những về tội ác của Hitler và Đức Quốc Xã đối với dân tộc Do Thái, mà còn về vô số tội ác của con người xuyên qua mọi thời đại và bất cứ nơi nào trên thế giới. Ông đã gióng lên tiếng kêu thảm thiết và không ngừng nghỉ để đánh thức nhân loại khỏi cơn mê ngủ trong sự dửng dưng và vô cảm trước tội ác.
Không phải trong một sớm một chiều mà tiếng kêu của ông đã được lắng nghe. Năm 1956, bằng tiếng Do Thái, ông đã viết cuốn hồi ký dài 800 trang. Sau đó, quyển hồi ký đã được rút ngắn lại còn 127 trang và được dịch sang tiếng Pháp với tựa đề “La Nuit”. Một năm sau đó, ấn bản Anh Ngữ mới xuất hiện: nhà xuất bản của Mỹ Hill & Wang chỉ trả trước cho ông đúng 100 Mỹ kim. Trong 18 tháng đầu, tác phẩm chỉ bán được đúng 1.046 cuốn. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí Time năm 1985, Wiesel nói rằng “Lúc đó, chuyện (Đức quốc xã) tế sát người Do Thái (Holocaust) không phải là điều người ta muốn biết”.
Bước ngoặt lớn chỉ được mở ra cho Wiesel vào năm 1960 khi đồ tể Adolf Eichmann bị Israel truy tầm và bắt giữ tại Á Căn Đình. Tội ác của Đức Quốc Xã dần dần được phơi bày rộng rãi. Tiếng nói của Wiesel bắt đầu được lắng nghe và ông đã trở thành hiện thân của các nạn nhân trong cuộc diệt chủng đối với người Do Thái. Không mấy chốc tác phẩm “Night” của Wiesel đã được bán ra trên cả chục triệu cuốn. Riêng nữ hoàng hội thoại truyền hình Oprah Winfrey, sau khi chính thức đưa tác phẩm vào thư viện riêng của cô và tháp tùng Wiesel đi thăm viếng trại tập trung Auschwitz, đã giúp bán thêm 3 triệu cuốn nữa. Tác phẩm đã được dịch sang không dưới 40 thứ tiếng khác và được đưa vào chương trình trung học tại nhiều nơi trên thế giới, nhứt là tại Hoa Kỳ.
Tiếng kêu thảm thiết mà Wiesel muốn gióng lên cho cả thế giới được tóm gọn trong chữ “Đêm” được ông dùng để diễn tả những hành động tàn ác vô nhân đạo tưởng như không có bút mực nào có thể diễn tả được:
“Tôi sẽ không bao giờ quên được đêm ấy, đêm đầu tiên trong trại tập trung, đêm đã biến cuộc sống của tôi thành một đêm dài gấp 7 lần.
Tôi sẽ không bao giờ quên được làn khói ấy (làn khói quyện trên những lò hơi ngạt, nơi mẹ và em gái của ông bị tế sát)
Tôi sẽ không bao giờ quên được những gương mặt nhỏ bé của các trẻ em mà tôi đã thấy biến thành khói dưới một bầu trời câm lặng.
Tôi sẽ không bao giờ quên được những làn khói đã vĩnh viễn thiêu rụi niềm tin của tôi.
Tôi sẽ không bao giờ quên được sự thinh lặng của bóng đêm đã vĩnh viễn cướp đi khát vọng muốn sống của tôi.
Tôi sẽ không bao giờ quên được những giây phút đã sát hại Thượng Đế của tôi và linh hồn tôi cũng như biến những ước mơ của tôi thành tro bụi.
Tôi sẽ không bao giờ quên được những điều ấy, ngay cả khi tôi bị kết án phải sống mãi như chính Thượng Đế.
Không bao giờ”.
Wiesel đã thề thốt như thế là vì con người vốn dễ quên. Và vì dễ quên cho nên cũng trở nên vô cảm, nhứt là vô cảm trước tội ác. Hồi ký của Wiesel mở đầu bằng chứng từ của một người bạn thiếu thời của ông tên là Moishe. Năm 1941, cùng với nhiều người Do Thái khác trong thành phố Sighet, người thiếu niên Moishe đã bị cảnh sát Hung Gia Lợi lùa lên những chiếc xe chở súc vật và mang đến vùng Galicia. Lúc đầu, những người Do Thái còn lại trong thành phố có tỏ ra quan tâm đến số phận của những người bị bắt đem đi. Nhưng rồi sau đó, cuộc sống diễn ra một cách bình thường. Chẳng ai còn màng đến những người đã ra đi. Thế rồi, một thời gian sau, Wiesel gặp lại Moishe trong hội đường. Moishe kể lại rằng cùng với những người Do Thái khác, cậu đã được đưa ra khỏi biên giới Hung Gia Lợi và khi vào lãnh thổ Ba Lan thì được giao cho mật vụ Gestapo của Đức Quốc Xã. Từ xe lửa, nhóm người Do Thái được đưa lên những chiếc tải để được chở ra một khu rừng. Tại đây, họ được lệnh đào những cái hố rộng. Người lớn lần lượt bị mang ra bắn và vùi xuống hố. Trẻ con bị tung lên để làm bia cho mật vụ Gestapo bắn như bắn chim. Moishe đã sống sót như một phép lạ: cậu đã bị bắn vào chân, các lý hình tưởng cậu đã chết cho nên bỏ đi. Moishe đã đi khắp thành phố để kể lại câu chuyện của mình. Nhưng chẳng có người Do Thái nào, ngay cả Wiesel tin lời cậu. Họ cho rằng cậu là một người điên. Mãi cho đến năm 1944, khi bị bắt đưa đi Auschwitz, mọi người mới nhận thức được rằng Moishe đã không nói dối: cậu là một nhân chứng không được lắng nghe!
Theo Wiesel, cộng đồng Do Thái ở Sighet đã tỏ ra vô cảm và dửng dưng trước tội ác được người thiếu niên Moishe kể lại. Nhưng có lẽ khủng khiếp hơn chính là thái độ vô cảm và dửng dưng của con người khi tận mắt chứng kiến tội ác. Trong cuộc “tử hành” (Death march) từ Ba Lan về Đức trong những ngày cuối của Đệ nhị Thế chiến, các tù nhân vì đói lả đã tranh nhau từng mảnh bánh vụn. Những người qua lại đã ném cho họ một ít bánh vụn mà không biểu lộ một chút kính trọng, cảm thông hay xót thương nào. Họ làm cử chỉ bố thí ấy như thể quăng mồi cho súc vật. Về sau, khi sống tại Paris, một hôm chứng kiến cảnh một phụ nữ giàu sang ném từng đồng xu nhỏ cho những đứa trẻ ăn xin giành giựt nhau, nhớ lại sự đối xử của khách qua đường đối với chính mình, Wiesel đã đến yêu cầu người đàn bà ngưng hành động phân phát của bà. Người đàn bà tỉnh bơ trả lời: ai cấm tôi làm việc bác ái!
Wiesel đã ghi lại chứng từ của ông để gởi đi một thông điệp: đừng bao giờ quên tội ác để không phải rơi vào thái độ vô cảm trước tộc ác. Là một người tỵ nạn cộng sản, đã từng nếm mùi thiên đàng cộng sản, đã từng nghe không biết bao nhiêu chứng từ về tội ác mà người cộng sản Việt Nam đã và đang gây ra cho dân tộc, tôi cảm nhận được một cách dễ dàng thông điệp của ông: tôi sẽ dễ dàng trở nên vô cảm trước tội ác và nỗi khổ của người đồng loại  nếu ký ức của tôi về tội ác bị lu mờ!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét