Chu Thập
16.10.12
Một trong những điều
mà khi nhắm mắt lìa đời có lẽ tôi vẫn còn ân hận, đó là chưa đền ơn trả nghĩa đủ
cho các bà chị của tôi. Hiếu thảo với cha mẹ là chuyện đương nhiên phải có.
Nhưng với tôi, ngoài công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, tôi thấy mình còn
mang nợ rất nhiều với các bà chị. Các chị tôi đã đóng một vai trò quan trọng
trong tiến trình “nên người” của tôi. Các chị tôi không hề “dạy dỗ” tôi, nhưng
đã hy sinh để tôi được “ăn học”. Món nợ của tôi đối với các chị quá lớn là bởi
các chị tôi đã chịu quá nhiều thiệt thòi để tôi có được ngày hôm nay.
Khi các chị tôi đến
tuổi cắp sách đến trường thì cũng là lúc gia đình tôi khánh tận. Cho nên tất cả
các chị của tôi đều bị thất học. Bà nào
khá lắm thì cũng chỉ tốt nghiệp “bình dân học vụ”, nghĩa là xé đủ vài cuốn
vần để đọc được 24 chữ cái và biết đọc biết viết. Vào đời và làm việc trong những
điều kiện mà xã hội tân tiến ngày nay gọi là cưỡng bách và bóc lột sức lao động
trẻ con, ngay từ tuổi nhỏ các chị tôi đã phải bôn ba tảo tần chẳng khác nào bà
Tú Xương. Ngoài việc bồng ẵm, chăm sóc, đút cơm, dắt mấy cậu em đi chơi, các chị
tôi cũng san sẻ gánh nặng gia đình với mẹ tôi trong việc đồng áng, chăn nuôi và
ngay cả buôn bán. Đến tuổi cập kê, gặp ông chồng thuộc gia đình khá giả thì còn
có nơi nương tựa. Nhưng phần lớn các chị tôi đều gặp chỗ “môn đăng hộ đối” với
những ông anh rể quanh năm ngày tháng chỉ biết cảnh “con trâu đi trước cái cày
theo sau” cho nên lam lũ vẫn là phần số “chạy trời không khỏi nắng” của các chị.
Vậy mà thân cò lặn lội bờ ao, các chị tôi bà nào cũng nuôi sống được một ông chồng
với cả chục đứa con. Riêng một bà chị “ở vậy” thì tôi chẳng biết dùng lời nào để
tán dương: bà là người duy nhứt thay mặt cho mọi người con sớm hôm túc trực bên giường bệnh để chăm sóc
người cha già yếu trong những năm cuối đời.
Nại đến hoàn cảnh
túng thiếu, cha mẹ tôi đành để cho các chị tôi thất học. Nhưng không hiểu sao
ông bà lại tìm đủ mọi cách để mấy thằng con trai có cơ hội ngước mặt nhìn đời
và mang về cho gia đình chút danh dự. Phải thành thật khai báo rằng cha mẹ tôi
quá cưng chìu con trai. Suốt ngày anh em con trai chúng tôi chỉ biết “ăn học”
và lêu lổng. Đã vậy, hễ có của ngon vật lạ thì trước là dành cho cha tôi, rồi
sau đến mấy thằng con trai, chứ chẳng bao giờ có thừa cho các bà chị. Mọi việc
trong nhà đã có mẹ và các bà chị lo. Bây giờ nhìn lại, tôi mới nhận ra quá trễ
rằng nếu không có những thiệt thòi và hy sinh của các bà chị, anh em trai chúng tôi khó mà ăn học cho đến nơi đến
chốn và nhứt là nên người.
Tôi không trách
cha mẹ tôi đã có sự “phân biệt đối xử” như thế với con cái. Cách đây 6,7 chục
năm, một phần vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhưng có lẽ vì thấm nhuần những “chân
lý nghìn đời” của Khổng giáo, cho nên cha mẹ tôi vẫn xem những câu nói của các
bậc “thánh hiền” bên Tàu như “thập nữ viết vô” hoặc “nữ nhi ngoại tộc” là khuôn
vàng thước ngọc.
Cứ tưởng những người
nghèo khổ thất học ở cái thời “chưa khai hóa” như cha mẹ tôi mới có thái độ
phân biệt giới tính và khinh thị nữ nhi. Ngày nay, cách cha mẹ tôi đến hơn nửa
thế kỷ, ở cái đất Trung Hoa vĩ đại của Đức Khổng Tử, chính sách mỗi gia đình một
đứa con đã khiến cho mạng sống của nữ nhi bị rẻ rúng khinh miệt và sát hại đã
đành, mà ngay tại Việt nam vẫn tồn tại quan niệm trọng nam khinh nữ khiến dẫn đến
nhiều tệ nạn xã hội và không biết bao nhiêu thảm cảnh gia đình.
Trong những ngày
này, cả thế giới đều theo dõi tình trạng sức khỏe của cô bé gái người Pakistan tên
là Malala Yousafzai. Cô nữ sinh 14 tuổi sinh sống trong vùng Swat Valley này đã
dám thách thức một trong những cổ tục hủ lậu của Phong Trào Hồi Giáo quá khích
Taliban là ngăn cấm nữ giới được cắp sách đến trường. Trên Blog riêng của mình,
Yousafzai đã mở chiến dịch chống lại tệ trạng này và kết quả là em đã bị một
nhóm Taliban tìm cách ám sát. Vết thương nơi đầu em quá nặng khiến phải di chuyển
em sang Bệnh viện hoàng gia Elizabeth bên Anh Quốc để chữa trị. Sự can đảm của
em Yousafzai đã giúp thế giới ý thức về thảm trạng mà nữ giới tại rất nhiều nơi
trên thế giới đang trải qua. Không được “ăn học” vì nghèo khổ là chuyện còn có
thể hiểu được. Đàng này, chỉ vì xem nữ giới là “hạ cấp” so với nam giới, cho
nên giam hãm họ trong sự ngu dốt là điều không thể chấp nhận được trong thế giới
văn minh ngày nay. Song song với chủ trương “ngu dân” đối với nữ giới ấy, nhiều
nơi còn nhân danh tôn giáo và truyền thống để chà đạp phẩm giá của nữ giới. Từ
chuyện bị cưỡng bách kết hôn, bị sát hại vì danh dự gia đình, bị cắt âm vật cho
đến chuyện ra đường phải có một người đàn ông trong gia đình tháp tùng hoặc
không được lái xe hay đi xe đạp...tại nhiều nơi trên thế giới, nữ giới vẫn còn
bị đối xử có khi còn thua cả thú vật ở các nước văn minh.
Ở những nơi chưa
được “khai hóa”, nặng tôn giáo quá khích hay truyền thống cổ hủ, thân phận người
phụ nữ rẻ như bọt bèo là chuyện xem ra còn có thể dung thứ được. Nhưng ở những
nước văn minh, ngay cả khi “nam nữ bình quyền” được ra rả tuyên xưng, khi những
quyền căn bản của người phụ nữ được nhìn nhận và điều được gọi là cuộc cách mạng
tình dục đã “giải phóng” người phụ nữ khỏi kiếp nô lệ trong chốn phòng the, nữ
giới vẫn chưa thoát khỏi hẳn cái vòng kim cô do nam giới áp đặt. Mới đây chính
trường Úc đại lợi đã nóng lên vì cuộc tranh cãi về phái tính. Bỏ qua một bên
cái “ý đồ” của thủ tướng Julia Gillard khi tấn công vào lãnh tụ đối lập Tony
Abbott, người mà bà cho là một tên kỳ thị giới tính và miệt thị đàn bà, bài diễn
văn tại Hạ viện Liên bang của bà hôm thứ Ba 9 tháng 10 vừa qua đã được các
phong trào và tổ chức tranh đấu cho nữ quyền trên khắp thế giới nhiệt liệt hoan
hô. Chuyện ông Tony Abbott có kỳ thị giới tính và miệt thị đàn bà hay không hẳn
là chuyện dài nhiều tập trên chính trường Úc. Nhưng bài diễn văn của bà Gillard
chắc chắn đã gợi lên rất nhiều thảm cảnh mà phụ nữ ngày nay vẫn còn phải gánh
chịu chỉ vì thân phận phụ nữ của mình. Không nói đến chuyện bạo hành trong gia
đình, bị kỳ thị trong sở làm hay chuyện buôn người và nô lệ tình dục, nhân loại
ngày nay có lẽ vẫn chưa đủ “trưởng thành” để thoát khỏi cái nhìn “sự vật hóa” đối
với người phụ nữ. Tựu trung, trong ánh mắt của nhiều người, phụ nữ vẫn còn là một
thứ để chinh phục, sở hữu và hưởng thụ. Tại sao người ta không đặt vấn đề “trinh
tiết” của đàn ông, mà lại cứ đòi hỏi điều đó nơi đàn bà? Chẳng qua là vì nhiều
người xem phụ nữ như một sản phẩm để mua. Mà mua thì dĩ nhiên ai cũng muốn mua
đồ mới!
Cách đây gần 50
năm, nhà văn Lâm Ngữ Đường, dưới cái nhìn của một người Phương Đông (mặc dù chẳng
có nơi nào phụ nữ bị miệt thị cho bằng trong văn hóa Trung Hoa), đã nói đến
chuyện khai thác thân thể phụ nữ tại Tây Phương, nhứt là tại Hoa kỳ. Ông viết:
“Các nghệ sĩ gọi đó là cái đẹp. Khán giả
gọi đó là nghệ thuật. Chỉ có những nhà dàn cảnh và các ông bầu hát mới ngay thẳng
gọi nó là sự gợi tình của nữ tính (sex appeal) và đàn ông thường lấy vậy làm
thích. Hiện tượng đó quả là hiện tượng đặc biệt của một xã hội tạo ra vì đàn
ông, do đàn ông chỉ huy, một xã hội trong đó đàn bà khỏa thân bị đem trưng ra
trước công chúng vì mục đích thương mại, còn đàn ông thì gần như không khi nào
bị như vậy, trừ vài anh mãi võ. Đàn bà ở trên sân khấu thì hở hang, gần như khỏa
thân, còn đàn ông ngồi dưới ngó lên thì ăn bận đàng hoàng, đeo cà vạt nữa. Nếu
xã hội do đàn bà chỉ huy thì tình trạng có đảo ngược không nhỉ” (Lâm Ngữ Đường,
Một quan niệm về Sống Đẹp, bản dịch Nguyễn Hiến Lê, trg 159-160).
Tôi vẫn bị cám dỗ
để tưởng tượng ra một thế giới ở khởi đầu do đàn bà lãnh đạo. Trong trường hợp
này thì có lẽ Kinh Thánh của Do thái giáo và Kitô giáo sẽ được viết “khác” đi. Biết
đâu Đức Chúa Trời không là Cha mà là Mẹ. Biết đâu trong 10 Giới Luật, sẽ có giới
luật “Ngươi không được thèm muốn “chồng” người ta chứ không phải là “vợ” người
ta!
Tưởng tượng cho
vui thôi. Lịch sử là điều không thể thay đổi. Lịch sử ấy nói với tôi rằng nhân
loại luôn trong tiến trình đi lên: lên từ xã hội do đàn ông độc quyền chỉ huy
sang xã hội “nam nữ bình quyền”, lên từ xã hội được điều khiển bởi sức mạnh của
cơ bắp sang xã hội được điều khiển bằng lý trí, lên từ xã hội xây dựng trên lò
thuốc súng sang xã hội của tình người...
Tôi luôn lạc quan
về lịch sử đi lên của xã hội loài người.
Cách đây gần 30 năm, thế giới đã chứng kiến cuộc cách mạng thường được mệnh
danh là “Sức mạnh quần chúng” (People’s Power) tại Phi luật tân. Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử nhân loại, đã diễn ra một cuộc đảo chánh mà không có tiếng
súng, không có cảnh máu đổ thịt rơi. Không một võ khí hay một tấc sắt trong tay,
người dân quốc gia hải đảo này đã xuống đường và lật đổ được nhà độc tài
Ferdinand Marcos. Kế đó, một cuộc cách mạng
như thế cũng đã diễn ra tại Haiti và buộc một nhà độc tài khác phải ra đi.
Nhưng có lẽ ngoạn mục hơn cả vẫn là cuộc cách mạng “êm như nhung” tại Tiệp Khắc
và đồng loạt các cuộc cách mạng tương tự tại khắp Đông Âu để khai tử các chế độ
độc tài cộng sản hồi năm 1989. Gần đây hơn, cuộc cách mạng được mệnh danh là “Hoa
lài” tại Tunisia đã khai mở một “Mùa Xuân” đầy hy vọng cho Trung Đông và các nước
Á rập. Đã đến lúc thế giới thấy rằng một chế độ cai trị có thể thay đổi mà
không buộc phải dùng đến bạo động và võ khí giết người.
Nhiều người đã có
lý khi gọi kỷ nguyên mới là kỷ nguyên của “Sức mạnh mềm” (soft power). Sức mạnh
mềm ấy đã được thể hiện qua sự phát triển và xử dụng rộng rãi hệ thống thông
tin toàn cầu. Trước kia, với nhà tù, trại tập trung, hàng rào kẽm gai, dùi cui,
báng súng...các chế độ độc tài đã có thể bưng bít thông tin và kìm kẹp người
dân trong sợ hãi. Nay với “Sức mạnh mềm” này, không có lý do gì để không tin rằng
chẳng có sự đe dọa nào còn có thể làm cho người dân lùi bước trước bạo lực nữa.
Nói theo ngôn ngữ của ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện, đã đến thời mà ông gọi là “kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng”. Trẻ
thơ là biểu tượng của chính “Sức mạnh mềm” ấy. Chỉ có sức mạnh của Hồn nhiên và
Trong trắng của Trẻ thơ mới có thể chiến thắng được Gian Dối. Chỉ có sức mạnh của
Hòa Bình nơi Trẻ thơ mới có thể hóa giải được Hận Thù và Bạo Lực.
Một cách nào đó, lịch
sử nhân loại cũng sẽ “đi lên” không chỉ vì sự bình đẳng của người phụ nữ trong
gia đình và xã hội được nhìn nhận, không chỉ vì người phụ nữ có thể đảm nhận rất
nhiều vai trò vốn từ trước đến nay chỉ
dành riêng cho nam giới. Lịch sử nhân loại “đi lên” là khi “Sức mạnh mềm” mà
người phụ nữ là một biểu tượng sẽ chi phối mọi sinh hoạt của con người. Đó là
lúc tình người, tinh thần phục vụ, lòng quảng đại, sự nhẫn nhục, từ tâm, quên
mình, hy sinh...trở thành những nguyên tắc hướng dẫn các quan hệ giữa người với
người.
Được sống và “mở”
mắt ra trong xã hội đầy tự do dân chủ, những khi nhớ các bà chị tuổi già sức yếu
chưa một ngày biết thế nào là xã hội với những từ rất kêu như văn mình, bình đẳng...tôi
thường tự hỏi, giữa tôi và các chị tôi, ai nên người hơn ai. Chắc chắn không phải
tôi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét