Chu Thập
24.6.16
Những lúc gặp
thất bại và đau khổ tôi thường nhớ lại câu chuyện của một nhà sư Đại Hàn. Nhà
sư này tên là Wonhyo, sống cách đây nhiều thế
kỷ. Là một người luôn đi tìm sự giác ngộ, nhưng sau khi nghiên cứu bao nhiêu
sách vở trong xứ sở của mình, nhà sư vẫn không cảm thấy toại nguyện. Nhà sư
Wonhyo cho rằng chỉ có tại Trung Hoa may ra ông mới có thể tìm thấy được những
cuốn sách hay và những bậc thày thâm hậu có thể giúp ông giác ngộ. Nghĩ như thế
cho nên ông đã khăn gói lên đường sang Trung Hoa.
Trong cuộc
hành trình, một đêm nọ, mưa bão đã khiến ông phải dừng chân và vào một hang động
để trú ẩn. Sau nhiều ngày đường, ông cảm thấy đói lả và kiệt sức. Trong bóng tối
của hang động, ông bỗng tìm thấy một cái bát. Và điều đáng ngạc nhiên nhứt đối
với nhà sư là cái bát ấy lại đầy nước. Trong cơn tuyệt vọng chỉ còn biết chờ chết,
nhà sư đã uống cạn nước trong cái bát. Chưa bao giờ trong đời ông được uống một
thứ nước ngọt ngào như thế. Sáng hôm sau, khi thức giấc, ông mới khám phá ra rằng
nơi ông trú ngụ không phải là một hang động mà là một ngôi mộ cổ. Có người đã bốc
mộ và cái bát ông đang cầm trong tay chính là chiếc sọ người mà không rõ vì sao
khi bốc mộ người ta đã bỏ sót lại. Dĩ nhiên nhìn kỹ nhà sư thấy chiếc sọ người
đầy cáu bẩn. Nước mưa đã đọng lại trong đó. Nhờ vậy mà ông mới xoa dịu được cơn
khát. Khám phá ra sự thật như thế, nhà sư mới nhận thấy đây mới chính là câu trả
lời cho những vấn nạn mà ông đã không ngừng đi tìm kiếm bấy lâu nay. Bỗng chốc,
dù vẫn còn đang ở trong ngôi mộ tối tăm,
mắt ông sáng hẳn lên và cái nhìn về thế
giới quanh ông đã hoàn toàn thay đổi. Ông ngẫm nghĩ: thật ra điều quan trọng
không phải là sự vật quanh ông mà chính là cái nhìn của ông về sự vật. Đây mới
thật sự là giác ngộ. Với cái nhìn mới về sự vật, nhà sư Wonhyo thấy không cần
phải sang tận Trung Hoa để tầm sư học đạo nữa. Ông quyết định trở về Đại Hàn vì
đã thực sự tìm thấy được lời giải đáp cuối cùng cho những khắc khoải của mình.
Theo truyền tụng, nhà sư Wonhyo đã trở thành một trong những bậc thày vĩ đại nhứt
trong lịch sử Đại Hàn. Liệu khi nhìn về sự phát triển vượt bực của Đại Hàn ngày
nay, có nên truy nguyên lên mãi đến sự giác ngộ và tinh thần lạc quan mà bậc
thày vĩ đại như nhà sư Wonhyo đã mang lại cho dân tộc này không?
Không phải
là tín đồ Phật Giáo thuộc một Giáo hội có tổ chức hoặc tìm đến chùa để cúng dường
hay làm công quả, tôi vẫn xem sự “giác ngộ” là một tiến trình trưởng thành nhân
cách quan trọng nhứt trong cuộc sống. Con người ta có hạnh phúc và an lạc không
là tùy ở cái nhìn của mình về thế giới xung quanh và nhứt là về những gì đã và
đang diễn ra trong cuộc sống của chính mình. Kẻ bi quan nhìn đâu cũng thấy bế tắc.
Người lạc quan thì trái lại giữa tăm tối vẫn nhìn thấy ánh sáng và lối thoát. Tựu trung, tôi tin rằng cái nhìn lạc
quan về cuộc sống luôn mang lại hy vọng và ý nghĩa cho cuộc sống.
Tôi không
rành về giáo lý của Phật Giáo. Nhưng cứ nhìn vào cung cách của Đức Đạt Lai Lạt
Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, tôi cho rằng một trong những sứ điệp
trọng tâm của Phật Giáo chính là tinh thần lạc quan. Mới đây, nhân chuyến viếng
thăm Hoa Kỳ của Ngài, một trong những tờ báo lớn nhứt của Mỹ là tờ Washington
Post đã cho đăng tải một bài viết mà tôi cho là tóm gọn giáo huấn của nhà sư được
xem là Phật sống này. Thật vậy trong bài báo có tựa đề “Why I am hopeful about
the World’s Future” (Tại sao tôi vẫn hy vọng về tương lai của thế giới. X. Việt
Báo online 16/6/2016), Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhắc lại thảm kịch của cá nhân
Ngài và dân tộc Tây Tạng khi phải rời bỏ quê hương để lên đường sang tỵ nạn tại
Ấn Độ từ năm 1959 cho đến nay. Bên cạnh thảm kịch của dân tộc Ngài, Đức Đạt Lai
Lạt Ma cũng nhắc đến cái chết của hơn 200 triệu người trong các cuộc xung đột
trong thế kỷ 20 vừa qua. Và ngày nay, theo Ngài, bạo lực đang diễn ra từng ngày
trên khắp thế giới xem ra lại càng khủng khiếp hơn: “Bạo lực kinh hoàng ở Trung
Đông, nơi như hồ sơ Syria đã dẫn tới khủng hoảng tỵ nạn lớn nhất trong một thế
hệ. Các vụ khủng bố tấn công kinh hoàng - như chúng ta mới được nhắc một cách
buồn bã hồi cuối tuần qua (cuộc thảm sát tại Orlando, Tiểu bang Florida, Hoa Kỳ)
– đã gây nỗi sợ hãi sâu thẳm”.
Tuy nhiên,
trước một bức tranh ảm đạm như thế, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng vẫn tỏ
ra lạc quan và kêu gọi mọi người hãy nuôi dưỡng tinh thần lạc quan. Ngài đưa ra
một số lý do để hy vọng và lạc quan. Trước hết, tính phổ quát của quyền con người
ngày càng được công nhận, đặc biệt là sự bình đẳng của người phụ nữ. Kế đó, ngày càng có nhiều người không còn xem
chiến tranh như một phương thế ưu biệt để giải quyết các vấn đề của thế giới nữa.
Khắp thế giới, cũng ngày càng có nhiều người đang làm những việc có giá trị để
ngăn cản khủng bố cũng như vận động để cắt giảm các kho vũ khí nguyên tử.
Nhưng đáng
chú ý hơn cả, theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, chính là ngày càng có nhiều người trên
khắp thế giới bày tỏ tình liên đới và từ tâm đối với thảm cảnh người tỵ nạn. Cuối
cùng, “một nguồn hy vọng thêm nữa là sự hợp tác chân thực giữa các nước trên thế
giới về mục tiêu chung được nhìn thấy trong Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu”.
Sở dĩ Đức Đạt
Lai Lạt Ma tỏ ra lạc quan trước tương
lai thế giới là bởi vì ngài tin tưởng rằng
“bản chất con người là từ bi trong căn bản”. Do đó, ngài nói như một vị tiên
tri: “Tôi tin có thể sẽ hiển lộ ra một kỷ
nguyên hòa bình trong những thập niên tới”.
Phật Giáo,
như được Đức Đạt Lai Lạt Ma thực hành
xuyên qua lời nói và hành động của ngài, quả là một tôn giáo khuyên dạy tinh thần
lạc quan. Tuy nhiên, khi bày tỏ hy vọng và lạc quan về tương lai của thế giới,
Ngài không thuyết giảng giáo lý Phật Giáo cho bằng điều mà Ngài gọi là “đạo đức
thế tục”. Đó là nền đạo đức mà dù thuộc chủng tộc, văn hóa hay tôn giáo nào, ai
cũng phải nhìn nhận và thực thi. Đó là nền đạo đức luôn kêu gọi và đòi hỏi con
người phải sống từ bi, tôn trọng người khác, cư xử tử tế với người đồng loại và
nhận lãnh trách nhiệm.
Mỗi ngày
Chúa nhựt tôi thường đến nhà thờ để tìm kiếm nguồn cảm hứng và sức mạnh hầu
nuôi dưỡng niềm hy vọng và sống một tuần lễ có ý nghĩa. Nhiều người tỏ ra bi
quan về tương lai của các Giáo hội Kitô, cách riêng tại Úc Đại Lợi này. Quả thật,
nếu để tâm quan sát, người ta sẽ nhận thấy hiện tượng giới trẻ Úc không còn đến
nhà thờ nữa. Hầu hết những người đến nhà thờ đều là các lão ông lão bà gần đất
xa trời hay những người ít nhứt cũng đã trên 60 tuổi. Bi quan về tương lai của
các Giáo hội, người ta cũng bi quan về giới trẻ. Người ta dễ có khuynh hướng
cho rằng giới trẻ ngày nay khô đạo, lạc lõng và hư hỏng. Tuy nhiên, riêng tôi,
vì cố gắng sống tinh thần lạc quan, tôi lại nhìn vào giới trẻ ngày nay với một
nhãn quan khác.
Giới trẻ
ngày nay có lẽ “khô đạo”, nhưng họ lại “đạo đức” hơn theo nền “đạo đức thế tục”
mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói đến. Trong cuộc sống hàng ngày, tôi gặp rất nhiều
người trẻ, dù không được giáo dục theo bất cứ một truyền thống tôn giáo nào, vẫn
tỏ ra là những người tử tế, biết quan tâm đến người khác, biết tôn trọng luật
pháp và nhứt là có ý thức cao về công bình và tình liên đới. Họ tích cực tham
gia các công tác thiện nguyện và làm từ thiện mà không cần phải dán lên người bất
cứ nhãn hiệu tôn giáo nào. Tựu trung, họ vẫn “có đạo” mà không cần phải theo một
tôn giáo; họ vẫn tìm ra được ý nghĩa và mục đích của cuộc sống mà không cần phải
được một tôn giáo hướng dẫn.
Tôn giáo quả
thật là nguồn cảm hứng và sức mạnh đối với rất nhiều người, nhứt là khi gặp hoạn
nạn khổ đau. Nhưng tôi cũng tin rằng con người có thể tìm thấy ý nghĩa và mục
đích cho cuộc sống mà không cần có niềm tin tôn giáo. Tôi nghĩ đến một trường hợp
điển hình là Bác sĩ Victor Frankl, một chuyên gia tâm lý người Áo đã từng sống
sót và trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã trong thời Đệ Nhị Thế chiến.
Trong cuộc nghiên cứu của mình, Bác sĩ Frankl nhận thấy rằng sở dĩ nhiều người
đã có thể chiến đấu và sống còn giữa những điều kiện nghiệt ngã nhứt trong cuộc
sống, cụ thể là trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã, là vì họ đã luôn giữ
vững tinh thần để tìm thấy ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống. Với kinh nghiệm bản
thân, Bác sĩ Frankl đã giúp cho nhiều người tìm thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc
sống và một trong những cách đó chính là giúp cho họ nhớ lại bao niềm vui, nỗi
khổ, những hy sinh và phúc lành mà họ đã từng có được trong cuộc sống. Nhờ vậy
mà nhiều người tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống.
Phật Giáo,
như được Đức Đạt Lai Lạt Ma thực hành, khuyên dạy tôi sống lạc quan, tin tưởng
và hy vọng. Ý niệm về “Quan Phòng” trong Kitô Giáo, nếu hiểu một cách đúng đắn,
không hề bảo tôi trong bất cứ chuyện gì cũng hô lên “Nếu Chúa muốn” như mấy ông
chiến binh “thánh chiến” của tổ chức khủng bố “Quốc gia Hồi giáo” vẫn thường
tuyên xưng khi ra tay sát hại người khác, mà trái lại cũng mời gọi tôi nên nhìn ra ánh sáng ở bất
cứ con đường hầm nào. Ngoài ra, cái lẽ minh triết “ tái ông thất mã” của người
Á Đông cũng không ngừng nhắc nhở tôi rằng trong cái rủi vẫn luôn ẩn tàng cái
may, trong thất bại vẫn có mầm mống của sự thành công, từ mất mát vẫn có thể nẩy
sinh niềm hy vọng và có biết bao nhiêu phúc lành lại được che dấu dưới những khốn
khổ...Từ cái chết của 50 người bị tàn sát trong cuộc khủng bố tại Orlando, từ
cái chết của nữ Dân biểu Anh Jo Cox và của không biết bao nhiêu nạn nhân của khủng
bố diễn ra hàng ngày trên khắp thế giới hiện nay, tôi thấy sáng lên một niềm hy
vọng chưa từng có: những bó hoa của tình liên đới, của từ tâm, của quảng đại, của
tử tế, của cảm thông...được xếp thành núi cao để tuyên xưng rằng hận thù sẽ
không bao giờ thắng được tình yêu.
Nhiều người
đã lên án Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001) vì lập trường phản chiến và “nối
giáo cho giặc” của ông trước năm 1975. Riêng tôi, tôi vẫn thích những bản tình
ca và những ca khúc đượm tính nhân bản và lạc quan của ông. Những lúc gặp thất
bại và khổ đau, tôi vẫn thích nghêu ngao những câu như: “mỗi ngày tôi chọn một
niềm vui” và nhứt là “tôi ơi đừng tuyệt vọng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét