Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

Lý lẽ của con tim



Chu Thập
1.5.12



Tôi thích các chương trình của Luke Nguyễn được chiếu trên Đài SBS. Làm gì thì làm, cứ đến giờ của Luke Nguyễn vào mỗi tối thứ năm hàng tuần, bằng mọi giá tôi phải xem cho bằng được. Một phần là để ủng hộ gà nhà, nhưng chính là vì so với các “chefs” dạy nấu ăn khác, tôi nhận thấy Luke Nguyễn có lối trình bày độc đáo và có sức thu hút hơn. Với tôi, Luke Nguyễn không chỉ dạy nấu ăn. Anh còn là một hướng dẫn viên du lịch có sức hấp dẫn đặc biệt. Nhờ anh tôi biết được một số địa danh ở Miền Bắc Việt nam mà vì nhiều lý do, có lẽ tôi sẽ không bao giờ đặt chân đến. Nhưng mới đây, với loạt bài “Luke Nguyễn’s Greater Mekong”, tôi lại có dịp đi thăm thú một số nước dọc theo sông Mekong như Trung quốc, Miến Điện và Thái Lan. Đặc biệt, ở Miến Điện, quốc gia bị chế độ độc tài quân phiệt bưng bít từ mấy chục năm qua, tôi hiểu thêm về địa lý, lịch sử, phong tục và nhứt là về Phật  giáo, tôn giáo đã làm cho con người ở đây hiếu hòa dễ mến hơn bất cứ nơi nào.
Luke Nguyễn không chỉ cho tôi thưởng thức (dĩ nhiên bằng hình ảnh) các món ăn độc đáo của các dân tộc sống dọc theo dòng Cửu Long Giang. Anh cũng giúp tôi đi vào cái hồn tôn giáo của những dân tộc này. Ở Chiang Mai, Thái Lan, Luke Nguyễn đã làm một cử chỉ thật cảm động: anh dạy cách nấu một món đồ chay của người địa phương, sau đó chia thành hai phần, một phần để mang lên chùa và một phần dành cho các tu sĩ khất thực. Cử chỉ thành tín của anh khi cung kính trao phần ăn cho các tu sĩ đã thật sự đánh động tôi.
Tôi hiểu được cảm xúc của cố linh mục Gildo Dominici, dòng tên, người Ý (có tên tiếng Việt là Đỗ Minh Trí) đã từng truyền giáo tại Việt nam trước năm 1975 và sau đó giúp đồng bào tỵ nạn Việt nam tại Galang, Nam Dương và Bataan, Phi luật tân. Vị linh mục này đã say mê Việt nam và chọn Việt nam làm quê hương vì chính hình ảnh của các tu sĩ khất thực. “Những thày tì kheo mỗi sáng thường xếp hàng một đi hết nhà này đến cửa hàng khác để khất thực, màu áo vàng rực rỡ dưới nắng. Họ siêu thoát và loại bỏ hết lòng tự ái. Nói cách khác, họ khất thực nhưng không phải là đi ăn xin. Họ tìm Tuệ Giác và Chân Như của đời sống. Đó là hình ảnh của Việt nam, quê hương tôi.
Những phật tử, theo đạo pháp, không được sát sinh dù là giết một con muỗi, chỉ sống bằng đồ chay, hoa quả và rau, đặt triết lý sống trên nền tảng bất bạo động và tôn trọng quyền sống của người khác. Đó là hình ảnh Việt nam, quê hương tôi” (Linh mục Dominici Đỗ Minh Trí, Việt nam quê hương tôi, ấn bản Úc châu lần thứ hai 1991, trg 18).
Đối với người dân Thái lan, Miến Điện hay những nước có đa số dân theo Phật Giáo, chia sẻ một chút thức ăn cho các tu sĩ khất thực là một nghi thức được làm mỗi ngày cho nên có thể trở thành quen thuộc và máy móc. Nhưng với tôi, đây phải là cử chỉ có ý nghĩa và đẹp nhứt trong ngày. Chỉ cần làm một khách bàng quan đứng nhìn đoàn người tu sĩ khất thực đi qua giữa phố chợ và cử chỉ cung kính của các tín đồ cũng đủ để cảm thấy thanh thản trong tâm hồn. Xã hội có tôn giáo vẫn đẹp hơn một xã hội không tôn giáo.
Thật ra, bất cứ cử chỉ tôn giáo thành tâm nào cũng có sức đánh động tâm hồn con người. Trước đây, tôi thường ghé mua các vật dụng và mồi câu cá tại một tiệm do một người Liban theo Hồi giáo làm chủ. Chiều nào cũng vậy, mặc cho khách hàng có chờ đợi, ông vẫn cứ thản nhiên lấy một tấm giấy cạc-tông trải vào ngay cái lối cửa sau, hướng về phía Tây và sấp mình cầu nguyện. Dù có ác cảm hay thành kiến đối với những người hồi giáo cực đoan đến đâu, tôi cũng vẫn luôn cảm thấy bị “tra vấn” bởi thái độ thành tín này. Nói gì đến tiếng tụng kinh gõ mõ, tiếng chuông chùa hay chuông giáo đường. Tôi vẫn nhớ mãi câu nói của nhà văn Nguyễn Khải trong nước: “Sáng một hồi chuông, tối một hồi chuông, dù có chai lỳ đến đâu, tên cướp nào nghe mãi rồi cũng phải hồi tâm”.
Tôn giáo quả là một trong những nhu cầu cơ bản nhứt của con người. Chối bỏ nhu cầu ấy có thể là một xúc phạm đến cái phần sâu thẳm nhứt trong con người. Chính vì thế mà tôi cảm thấy hoang mang không ít khi đọc cuốn sách “The God Delusion” (Thiên Chúa là ảo tưởng) của tác giả nổi tiếng Richard Dawkins. Mới đây tạp chí “Prospect” (nguyệt san nổi tiếng chuyên về chính trị và thời sự của Anh quốc) đã đặt ông vào danh sách 3 nhà trí thức hàng đầu của thế giới. Là một giáo sư uyên bác của trường đại học Oxford, ông Dawkins không những tự nhận mình là một người vô thần, mà còn quảng bá chủ thuyết vô thần một cách rất tích cực, nếu không muốn nói là “hung hãn”. Dạo tháng trước, giáo sư Dawkins có sang Úc đại lợi và tham gia một cuộc tranh luận truyền hình với đức hồng y George Pell, tổng giám mục Sydney, người được xem là nhà lãnh đạo công giáo có thế giá nhứt tại Úc đại lợi. Cuộc tranh luận đã được rất nhiều người theo dõi. Kết quả cho thấy giáo sư Dawkins được đến 70 phần trăm khán thính giả ủng hộ, trong khi nhà lãnh đạo công giáo Sydney chỉ được 30 phần trăm.
Tuy là người công giáo, tôi chẳng thấy buồn phiền chút nào về sự đánh giá trên đây. Một nhà lãnh đạo tôn giáo không đương nhiên là một nhà trí thức uyên bác, lại càng không phải là một thứ “thày cãi” biết uốn lưỡi và xử dụng nhuần nhuyễn ngôn từ và luận lý như nhồi bóng. Hơn nữa, tôn giáo thường cũng chẳng phải là chuyện để mang ra tranh cãi.
Tôi ngưỡng mộ kiến thức uyên bác và lý luận sắc bén của giáo sư Dawkins. Những vấn đề về “Thiên Chúa”, đặc biệt về Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước hay thái độ cực đoan trong tôn giáo qua nhiều thời đại được ông nêu lên là cơ hội để tôi đào sâu niềm tin tôn giáo của mình.
Tôi chỉ hơi buồn một chút khi vị giáo sư này đòi dẹp bỏ mọi tôn giáo ra khỏi thế giới. Trong lời nói đầu của cuốn sách, giáo sư Dawkins đã trích dẫn ca khúc nổi tiếng “Imagine” (hãy thử tưởng tượng) của cố nhạc sĩ John Lennon, cột trụ của ban nhạc thời danh The Beatles. Ở tuyệt đỉnh danh vọng, người nghệ sĩ tài ba này đã có lúc tự cho mình nổi tiếng và có uy thế hơn cả Chúa Giêsu. Trong ca khúc được nhắc đến nhiều nhứt này, John Lennon đã kêu gọi: “Hãy thử tưởng tượng một thế giới không có tôn giáo”. Vẫn nghĩ rằng biên giới giữa các quốc gia và nhứt là khoảng cách giữa các tôn giáo là chướng ngại lớn nhứt cho hòa bình, Lennon không ngừng đưa ra thông điệp: “Hãy cho hòa bình một cơ hội”.
Lấy lại ý tưởng của nhạc sĩ Lennon, giáo sư Dawkins cũng kêu gọi hãy thử tưởng tượng “một thế giới không có tôn giáo”. Theo ông, một thế giới không có tôn giáo thì làm gì có “chuyện ôm bom tự sát, làm gì có cuộc khủng bố 9 tháng 11 năm 2001, làm gì có các cuộc thập tự viễn chinh, làm gì có sự chia cắt Ấn độ, làm gì có chiến tranh giữa Israel và Palestine, làm gì có những cuộc tàn sát giữa người Serbia, Croatia và Hồi giáo, làm gì có cuộc bách hại người Do thái vì họ là những kẻ “giết Chúa”, làm gì có những xáo trộn ở Bắc Ái Nhĩ Lan, làm gì có những cuộc giết người vì danh dự (trong các gia đình Hồi giáo và Ấn giáo)...làm gì có phong trào Taliban đặt bom làm nổ tung các bức tượng cổ, làm gì có chuyện chặt đầu những kẻ nói phạm thượng, làm gì có chuyện dùng roi đánh vào người phụ nữ chỉ vì họ để lộ một chút thịt da...” (Dawkins R, 2007, The God Delusion, Random House Australia, Sydney, pp1-2).
Nói đến những “lỗi lầm lịch sử” của các tôn giáo thì quả thực không xuể. Năm 2000, Giáo hội công giáo đã chính thực thanh tẩy ký ức bằng cách nhìn nhận những lỗi lầm của con cái mình trong suốt dòng lịch sử. Nói đến những lỗi lầm của Giáo hội công giáo, làm sao quên được vụ án Galileo, làm sao xóa bỏ được những Tòa Điều Tra (Inquisition) và các giàn hỏa thiêu dành cho những người “lạc giáo”, làm sao quên được những cuộc chiến đẫm máu giữa các nước theo Công giáo và những nước theo Tin lành, làm sao chối bỏ được sự kiện lưỡi gươm và thập giá sánh vai nhau hay chuyện vì nhiệt thành rao truyền niềm tin mà chà đạp văn hóa của các dân tộc hoặc cưỡng bách cải đạo...Tôn giáo nào cũng đầy dẫy những mảng tối đáng buồn. Nhưng cái cốt lõi của mọi tôn giáo theo đúng nghĩa đều giống nhau và được diễn tả qua câu nói quen thuộc của người Việt nam chúng ta: “Tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành”. Và chính vì dạy con người ăn ngay ở lành mà tôn giáo nào cũng cần thiết cho xã hội. Chẳng có tôn giáo đích thực nào chủ trương tiêu diệt người khác đạo bằng cách này hay cách khác. Có những nhà lãnh đạo tôn giáo tham vọng và ngay cả độc ác, nhưng không có tôn giáo nào là độc ác. Có những nhà lãnh đạo chính trị lợi dụng tôn giáo cho mưu đồ cá nhân, nhưng không hề có tôn giáo nào xem quyền lực thống trị là cứu cánh.
Một thế giới không có tôn giáo hẳn sẽ là một thế giới không những lạc hậu mà còn buồn thảm là khác. Hãy thử tưởng tượng thế giới ngày nay sẽ như thế nào nếu Kitô giáo đã không xuất hiện cách đây 2 ngàn năm. Đã thực sự có một nền văn minh Kitô giáo: đó là điều mà dầu có tiến bộ đến đâu, thế giới cũng sẽ không bao giờ chối bỏ được. Không cần phải là một nhà lãnh đạo tôn giáo tầm cỡ như đức giáo hoàng Gioan Phaolo II để tuyên bố rằng nhân loại không thể loại bỏ Chúa Kitô ra khỏi lịch sử. Và dĩ nhiên, người ta cũng có  thể nói như thế về Đức Thích Ca, Đức Khổng Tử, hay Đức Lão Tử...Loại bỏ khỏi Hồi giáo những thành phần cực đoan, cuồng tín và khủng bố, người ta cũng phải nhìn nhận rằng giáo lý của Tiên Tri Mahomet đã thực sự mang lại an lạc và hạnh phúc cho biết bao nhiêu người.
Một xã hội không có tôn giáo chỉ có thể là một xã hội băng hoại. Bằng chứng hiển nhiên nhứt là các chế độ lấy chủ nghĩa vô thần làm quốc giáo. Khi Thượng Đế, Thiên Chúa, thần thánh...bị loại bỏ thì con người buộc phải tôn thờ chính con người. Tưởng có thể xây dựng được một xã hội hoàn toàn thoát khỏi cái bóng của Thiên Chúa và Giáo hội công giáo, những người thực hiện cuộc cách mạng Pháp năm 1789 cũng đành phải sáng tạo ra những vị thần mới và một tôn giáo mới.Thay cho Thượng Đế là Thần Lý Trí. Để tôn thờ Vị Thần ấy, con người lại  tàn bạo, độc ác và dã man gấp nghìn lần những kẻ mà họ đã hạ bệ. Nói gì đến cái thiên đường trần gian không có tôn giáo do những người cộng sản vô thần xây dựng. Tưởng cái thời lạc hậu bán khai khi con người giết người đồng loại để tế thần đã qua. Trong cái tôn giáo “vô thần” được những người cộng sản tuyên xưng, chỉ trong không đầy một thế kỷ, đã có trên cả trăm triệu người bị sát tế trên bàn thờ XHCN.
Tôn giáo chẳng khác nào một bản năng: càng xua đuổi, nó càng trở lại nhanh hơn. Tôi không dám làm “thầy bói” để “gieo quẻ” về tương lai của tôn giáo. Nhưng tôi tin rằng, dưới hình thức này hay hình thức khác, tôn giáo vẫn mãi mãi tồn tại. Tôn giáo tồn tại bởi vì khoa học, dù có tiến bộ đến đâu, cũng vẫn không thể giải đáp được những bí ẩn của kiếp người. Thực ra, tâm hồn con người là cả một bí ẩn mà chẳng có thứ khoa học nào có thể hiểu cho thấu đáo. Chẳng bao giờ khoa học có thể làm cho tâm người ta hoàn toàn an bình mà tôn giáo thì lại có thể làm được. Mãi mãi câu nói của nhà bác học kiêm triết gia Pháp Blaise Pascal vẫn đúng: “Con tim có những lý lẽ mà Lý Trí không biết được” (Le coeur a ses raisons que la raison ne connait point). Tôn giáo cũng có những lý lẽ mà khoa học không thể nào nghiệm chứng được.
Quả thật, khoa học sẽ chẳng bao giờ có thể thế chỗ hay loại trừ tôn giáo ra khỏi tâm hồn con người. Tôn giáo, với những niềm tin hay tín điều xem ra vô lý và ngay cả “ngu xuẩn” đi nữa, vẫn cần thiết cho con người và xã hội loài người. Không chỉ luôn dạy con người ăn ngay ở lành,  tôn giáo còn hiện hữu như một lời kêu gọi sống khoan nhượng. Xét cho cùng, một xã hội biết sống khoan nhượng chính là minh chứng hùng hồn nhứt cho sự cần thiết của tôn giáo trong xã hội hôm nay.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét