13.11.15
Vanuatu là một quốc gia nhỏ bé trong Thái Bình Dương. Ngoài cảnh trí thiên nhiên thơ mộng và cơn bão “Pam” hồi đầu
năm nay, các cơ quan truyền thông thế giới ít khi nhắc đến quốc gia có trên 80
hòn đảo nhỏ và với dân số khoảng 250.000 người này. Tuy nhiên, mới đây, theo nhật
báo Anh ngữ “The Vanuatu Daily Post”, đã
xảy ra chuyện có lẽ chỉ có ở Vanuatu.
Ngày thứ Sáu 9 tháng 10 vừa qua, 14 người gồm bộ trưởng và các nhà
lập pháp Vanuatu, tức một phần ba Quốc Hội, đã bị Tòa án Tối cao nước này kết tội
tham nhũng và có thể lãnh bản án 10 năm tù. Hơn nữa, đứng đầu danh sách này lại
là Chủ tịch Quốc Hội, ông Marcellino Pipite và Phó thủ tướng, ông Moana
Carcasses Kalosil. Theo báo “The Vanuatu Daily Post”, 14 người bị kết án tham
nhũng này,
theo chương trình, sẽ bị tuyên án vào ngày 22
tháng 10.
Trong khi chờ đợi thì, theo Hiến pháp Vanuatu, khi tổng thống nước này đi
công cán ở nước ngoài, Chủ tịch Quốc Hội vẫn đảm nhận tất cả quyền hành và nghĩa
vụ của tổng thống, kể cả quyền được ân xá cho bất cứ tội nhân nào. Chuyện đã xảy
ra là khi Tổng thống Vanuatu, ông Baldwin Lonsdale đi thăm viếng nước
láng giềng Samoa, Chủ tịch Quốc Hội Pipite đã nại đến quyền đang có trong
tay để tự ân xá cho mình và 13 nhà lập pháp bị kết tội tham nhũng. Theo ông
Pipite, sở dĩ ông có hành động như thế là để “bảo đảm hòa bình và đoàn kết cho
Vanuatu”, nghĩa là để tránh bất ổn như thường xảy ra tại các nước láng giềng
như Fiji, Papua New Guinea và Salomon Islands.
Dĩ nhiên, nếu để bảo đảm hòa bình và ổn định cho xứ sở mà tự ân xá cho
mình, thì quả thật ông Chủ tịch Quốc Hội Vanuatu xem người dân như không hề có mặt
trong đất nước này. Bởi lẽ người dân đã tỏ ra phẫn nộ khi nghe Tòa Án Tối Cao kết
án 14 nhà lập pháp về tội tham nhũng. Họ đã hy vọng rằng phán quyết này sẽ chấm
dứt tệ nạn tham nhũng vốn đã trở thành một thứ dịch bệnh hầu như vô phương cứu
chữa.
Kể từ khi trở về Vanuatu sau chuyến viếng thăm Samoa, Tổng thống Lonsdale chưa đưa ra bất cứ hành động pháp lý
nào để đối phó với việc Chủ tịch Quốc Hội Pipite tự ân xá cho mình và các đồng
nghiệp. Tuy nhiên, trong một cuộc họp báo, ông Lonsdale đã tuyên bố rõ ràng rằng
“không ai có thể đứng trên luật pháp”. Ông nói rằng với tư cách là nguyên thủ
quốc gia, ông muốn cho dân chúng biết rằng ông rất buồn vì chuyện đã xảy ra cho
xứ sở. Dù vậy, ông vẫn không cho biết ông sẽ có biện pháp nào đối với các chính
trị gia đã bị kết vị tội tham nhũng. Ông chỉ nói một cách bóng gió rằng ông sẽ
“dọn dẹp nhà bếp”. Nhưng dọn dẹp như thế nào cũng tùy ở các cố vấn pháp luật của
ông.
Với những lời tuyên bố ưỡm ờ như thế từ một
nguyên thủ quốc gia, người ta không ngạc nhiên tại sao người dân Vanuatu đã
chán đến tận cổ về hệ thống chính trị của đất nước mình. Kể từ khi được độc lập từ thập niên 1980 đến nay, Vanuatu
đã trải qua nhiều bất ổn chính trị và tranh chấp với các nước láng giềng, đặc
biệt là với Fiji. Cứ mỗi lần tổng thống hoặc thủ tướng nước này xuất ngoại là
có chuyện xảy ra. Năm 2010, khi Thủ tướng
Edward Natapei sang Mễ Tây Cơ để tham dự Hội nghị Thượng đỉnh về Thời tiết, hội đồng nội các đã bỏ phiếu bất tín nhiệm và lật
đổ ông. Theo báo “The Economist”, trong 2 năm cầm quyền, ông Natapei đã bị nội
các đưa ra kiến nghị truất phế đến 6 lần. Mặc dù không phải là một lãnh tụ
không được lòng dân, nhưng ông Natapei luôn luôn bị phe đối lập chống đối và
tìm cách lật đổ.
Đầu năm nay, khi Tổng thống Lonsdale đang viếng thăm Nhật Bản thì bão Pam
càn quét Vanuatu. Mặc dù trận bão không gây ra nhiều thiệt hại về nhân mạng,
nhưng ông Lonsdale bị chỉ trích là đã không tỏ ra tích cực trong việc cứu trợ
và tái thiết xứ sở.
Bão Pam đã thổi qua Vanuatu trong 5 ngày liên tiếp dạo tháng 3 vừa qua. Phần
lớn dân số nước này lâm cảnh màn trời chiếu đất, 90 phần trăm cơ sở ở Thủ đô Port Vila bị thiệt hại nặng nề. Port Vila được xem
là thành phố dễ bị tổn thương nhất trên thế giới mỗi khi xảy ra thiên tai.
Ngoài bão lụt, thủ đô Port Vila còn bị đe dọa triền miên bởi sóng thần và động
đất. Là một quần đảo, lại nằm trong vùng nhiệt đới, Vanuatu luôn bị đe dọa bởi
mưa bão.
Bên ngoài Thủ đô Port Vila, các đảo khác của Vanuatu cũng không an
toàn hơn. Đã vậy, mỗi khi xảy ra thiên tai, việc cứu trợ lại không được hữu hiệu.
Vì tham nhũng và thiếu phối trí, Chính phủ
Vanuatu không được các cơ quan cứu trợ và tổ chức từ thiện hợp tác. Sau trận
bão Pam vừa qua, đã có đến hàng trăm cơ quan và tổ chức tôn giáo tham gia cứu
trợ, nhưng chỉ có một số nhỏ chịu hợp tác với chính phủ.
Là một quần đảo được khai sinh từ núi lửa, Vanuatu cách Úc Đại Lợi về phía
Bắc khoảng 1750 cây số, cách New Caledonia về hướng Đông Bắc 500 cây số và là
nước láng giềng của New Guinea, Solomon Islands và Fiji.
Qua một số di tích, các nhà khảo cổ cho rằng quần đảo Vanuatu đã có người đến
ở cách đây khoảng 4000 năm. Những mảnh sứ được
tìm thấy ở đây đã được làm ra trước Công nguyên đến
cả trên cả ngàn năm.
Các nhà thám hiểm Âu Châu đã khám phá được Vanuatu vào đầu Thế kỷ 17, nhưng mãi đến năm 1768, họ mới chính thức trở lại
đây. Năm 1774, Thuyền trưởng Cook đặt tên cho quần đảo này là “New
Hebrides”. Tên này được sử dụng mãi cho đến khi Vanuatu được độc lập hồi năm 1980.
Năm 1825, khi người lái buôn tên là Peter Dillon khám phá được gỗ đàn hương (sandalwood) tại đảo Erromango, nhiều người di dân từ các
nước đã đổ xô đến đây để làm ăn. Tuy nhiên, giữa người di dân và người bản xứ gốc
Polynesian đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ khiến làn sóng di dân chấm dứt. Vào thập
niên 1860, nhu cầu canh tác tại Úc Đại Lợi, Fiji và Solomon Islands đã khiến nhiều
người bản xứ rời bỏ xứ sở để đi làm ăn xa.
Vào thế kỷ 19, các nhà truyền giáo Công giáo và Tin Lành từ Âu Châu và Bắc
Mỹ đã đến Vanuatu để truyền đạo. Cùng với các nhà truyền giáo, người Tây Phương
cũng sang chiếm đất để mở các đồn điền trồng bông vải. Nhưng khi giá bông vải
trên thị trường thế giới sút giảm, các chủ đồn điền mới chuyển sang trồng cà
phê, cacoa, chuối và nhất là dừa. Lúc đầu, phần lớn các chủ đồn điền và dân nhập
cư là người Anh xuất phát từ Úc Đại Lợi. Về sau, người Pháp từ New Caledonia
cũng tràn qua. Vào đầu thế kỷ 20, dân nhập cư gốc Pháp đông gấp 2 lần người Anh.
Vì quyền lợi của dân mình, cả Pháp và Anh Quốc, ai cũng đều muốn sát nhập
Vanuatu vào lãnh thổ của mình. Nhưng năm 1906, hai nước này đã thỏa thuận chia
chác với nhau để cùng quản lý quần đảo Vanuatu. Được đặt tên
là “Condominium”
(đồng trị) của Anh Pháp, Vanuatu có một chính phủ độc nhất
vô nhị trên thế giới từ trước đến nay.
Đầu thập niên 1940, người dân Vanuatu bắt đầu chống lại hình thức cai trị
này. Trong Đệ nhị Thế chiến, người Mỹ đặt chân đến quần đảo này. Họ mang theo của
cải và góp phần khơi dậy tinh thần quốc gia của người dân hải đảo. Người dân đặt
niềm tin nơi một nhân vật huyền thoại có tên là John Frum, người có chủ trương
giải phóng người dân gốc “Melanesian”. Ngày nay, “John Frum” đã trở thành một
tôn giáo và đồng thời cũng là một đảng chính trị.
Đảng chính trị đầu tiên được thành lập tại Vanuatu vào đầu thập niên 1970 lấy
tên là “New Hebrides National Party” (Đảng Quốc
gia New Hebrides). Một trong những người sáng lập Đảng này là linh mục Walter
Lini, về sau trở thành thủ tướng. Năm 1974, lấy tên là Vanua’aku Pati, Đảng này
đã đứng ra tranh đấu cho độc lập và Cộng hòa Vanuatu được thành lập năm 1980. Cộng
hòa Vanuatu theo dân chủ đại nghị. Theo Hiến pháp nước này, “nguyên thủ quốc
gia được gọi là tổng thống, tượng trưng cho sự đoàn kết quốc gia”. Được bầu cử
với quyền hạn 5 năm, chức vụ tổng thống Vanuatu chỉ có tính cách nghi lễ và tượng trưng. Người nắm thực
quyền mới là thủ tướng được Quốc Hội bầu lên. Đứng đầu chính phủ, chính thủ tướng
là người bổ nhiệm các bộ trưởng.
Chính phủ và xã hội Vanuatu được phân chia dựa theo hai ngôn ngữ chính là
Anh và Pháp. Đây là lý do khiến việc thành lập chính phủ liên minh không phải
là việc dễ dàng tại nước này. Trong khi
các chính trị gia nói tiếng Pháp có khuynh hướng bảo thủ và ủng hộ việc duy trì
quan hệ mật thiết với “mẫu quốc” Pháp và Tây Phương thì những người nói tiếng
Anh, mà đại diện là Đảng Vanua’aku Pati, lại theo khuynh hướng xã hội và chống
thực dân. Thật ra bên cạnh tiếng Anh và tiếng Pháp, người dân Vanuatu còn có
ngôn ngữ chính là tiếng “Bislama”. Và song song với tiếng “Brislama”, còn có cả
hàng trăm thổ ngữ khác vẫn còn được người dân Vanuatu sử dụng. Tính theo tỷ lệ, Vanuatu là nơi có nhiều thứ tiếng
nhất: trung bình cứ 2000 người thì có một thứ tiếng.
Vốn không có mỏ dầu và các thứ quặng mỏ khác, Vanuatu chỉ biết sống dựa vào
nông nghiệp, ngư nghiệp và du lịch. Nông sản được làm ra để xuất khẩu và nuôi sống
đến 65 phần trăm dân số. Riêng kỹ nghệ du lịch đưa về một lượng ngoại tệ đáng kể.
Vanuatu được nhìn nhận như một trong những điểm đến của những người thích lặn
xuống biển để thám thính những bãi san hô trong vùng Nam Thái Bình Dương. Những
tay thợ lặn cũng bị thu hút bởi xác của chiếc tàu du lịch được biến thành chiến hạm “SS President Coolidge” trong đảo Espiritu
Santo. Bị đánh chìm trong thời Đệ Nhị Thế chiến, đây là một trong những xác tàu nổi tiếng nhất
thế giới được biến thành nơi giải trí cho các thợ lặn.
Kỹ nghệ du lịch đã biến Vanuatu thành một trong những “thiên đàng” đối với
các chương trình truyền hình thực tế. Như chương trình “Survivor” (sống sót) chẳng hạn được dàn dựng và quay tại Vanuatu.
Là một nước kém phát triển, Vanuatu chưa có đủ điều kiện để nâng cao trình
độ giáo dục của người dân. Nước này chưa có chính sách cưỡng bách giáo dục. Tỷ
lệ trẻ em cắp sách đến trường vẫn còn rất thấp. Tình trạng
y tế tại Vanuatu cũng còn rất thô sơ. 80 phần trăm dân số nước này sống ở nông
thôn. Do bị cô lập về địa lý, người dân không hưởng được đầy đủ các dịch vụ y tế cơ bản. Các Giáo hội và các tổ chức
không chính phủ đang cố gắng bù đắp phần nào cho những thiếu sót này, nhưng chỉ
giải quyết được một số nhu cầu cơ bản của người dân ở các vùng nông thôn mà
thôi. Các dịch vụ y tế và giáo dục của chính phủ hiện đang phải đương đầu với
tình trạng “nhân mãn” của dân nghèo sống ở các khu ổ chuột tại Thủ đô Port Vila và một thành phố lớn khác là Luganville.
Dù vậy, các số liệu chính thức cho thấy tử suất của trẻ
con đã có phần thuyên giảm trong hậu bán thế kỷ 20 vừa qua: năm 1967, cứ một
ngàn người dân có đến 123 đứa trẻ chết; vào năm 1999, tỷ lệ này chỉ còn 25.
(Theo the Diplomat Oct 15,2015:Trouble
in Paradise: Intrigue and Corruption
in Vanuatu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét