Thứ Hai, 16 tháng 11, 2015

Chuyện chỉ có ở Vanuatu


13.11.15
Vanuatu là một quốc gia nhỏ bé trong Thái Bình Dương. Ngoài cảnh trí thiên nhiên thơ mộng và cơn bão “Pam” hồi đầu năm nay, các cơ quan truyền thông thế giới ít khi nhắc đến quốc gia có trên 80 hòn đảo nhỏ và với dân số khoảng 250.000 người này. Tuy nhiên, mới đây, theo nhật báo Anh ngữ “The Vanuatu Daily Post”,  đã xảy ra chuyện có lẽ chỉ có ở Vanuatu.
Ngày thứ Sáu 9 tháng 10 vừa qua, 14 người gồm bộ trưởng và các nhà lập pháp Vanuatu, tức một phần ba Quốc Hội, đã bị Tòa án Tối cao nước này kết tội tham nhũng và có thể lãnh bản án 10 năm tù. Hơn nữa, đứng đầu danh sách này lại là Chủ tịch Quốc Hội, ông Marcellino Pipite và Phó thủ tướng, ông Moana Carcasses Kalosil. Theo báo “The Vanuatu Daily Post”, 14 người bị kết án tham nhũng này, theo chương trình, sẽ bị tuyên án vào ngày 22 tháng 10.
Trong khi chờ đợi thì, theo Hiến pháp Vanuatu, khi tổng thống nước này đi công cán ở nước ngoài, Chủ tịch Quốc Hội vẫn đảm nhận tất cả quyền hành và nghĩa vụ của tổng thống, kể cả quyền được ân xá cho bất cứ tội nhân nào. Chuyện đã xảy ra là khi Tổng thống Vanuatu, ông Baldwin Lonsdale đi thăm viếng nước láng giềng Samoa, Chủ tịch Quốc Hội Pipite đã nại đến quyền đang có trong tay để tự ân xá cho mình và 13 nhà lập pháp bị kết tội tham nhũng. Theo ông Pipite, sở dĩ ông có hành động như thế là để “bảo đảm hòa bình và đoàn kết cho Vanuatu”, nghĩa là để tránh bất ổn như thường xảy ra tại các nước láng giềng như Fiji, Papua New Guinea và Salomon Islands.
Dĩ nhiên, nếu để bảo đảm hòa bình và ổn định cho xứ sở mà tự ân xá cho mình, thì quả thật ông Chủ tịch Quốc Hội Vanuatu xem người dân như không hề có mặt trong đất nước này. Bởi lẽ người dân đã tỏ ra phẫn nộ khi nghe Tòa Án Tối Cao kết án 14 nhà lập pháp về tội tham nhũng. Họ đã hy vọng rằng phán quyết này sẽ chấm dứt tệ nạn tham nhũng vốn đã trở thành một thứ dịch bệnh hầu như vô phương cứu chữa.
Kể từ khi trở về Vanuatu sau chuyến viếng thăm Samoa, Tổng thống Lonsdale chưa đưa ra bất cứ hành động pháp lý nào để đối phó với việc Chủ tịch Quốc Hội Pipite tự ân xá cho mình và các đồng nghiệp. Tuy nhiên, trong một cuộc họp báo, ông Lonsdale đã tuyên bố rõ ràng rằng “không ai có thể đứng trên luật pháp”. Ông nói rằng với tư cách là nguyên thủ quốc gia, ông muốn cho dân chúng biết rằng ông rất buồn vì chuyện đã xảy ra cho xứ sở. Dù vậy, ông vẫn không cho biết ông sẽ có biện pháp nào đối với các chính trị gia đã bị kết vị tội tham nhũng. Ông chỉ nói một cách bóng gió rằng ông sẽ “dọn dẹp nhà bếp”. Nhưng dọn dẹp như thế nào cũng tùy ở các cố vấn pháp luật của ông.
Với những lời tuyên bố ưm ờ như thế từ một nguyên thủ quốc gia, người ta không ngạc nhiên tại sao người dân Vanuatu đã chán đến tận cổ về hệ thống chính trị của đất nước mình. Kể từ khi được độc lập từ thập niên 1980 đến nay, Vanuatu đã trải qua nhiều bất ổn chính trị và tranh chấp với các nước láng giềng, đặc biệt là với Fiji. Cứ mỗi lần tổng thống hoặc thủ tướng nước này xuất ngoại là có chuyện xảy ra. Năm 2010, khi Thủ tướng Edward Natapei sang Mễ Tây Cơ để tham dự Hội nghị Thượng đỉnh về Thời tiết, hội đồng nội các đã bỏ phiếu bất tín nhiệm và lật đổ ông. Theo báo “The Economist”, trong 2 năm cầm quyền, ông Natapei đã bị nội các đưa ra kiến nghị truất phế đến 6 lần. Mặc dù không phải là một lãnh tụ không được lòng dân, nhưng ông Natapei luôn luôn bị phe đối lập chống đối và tìm cách lật đổ.
Đầu năm nay, khi Tổng thống Lonsdale đang viếng thăm Nhật Bản thì bão Pam càn quét Vanuatu. Mặc dù trận bão không gây ra nhiều thiệt hại về nhân mạng, nhưng ông Lonsdale bị chỉ trích là đã không tỏ ra tích cực trong việc cứu trợ và tái thiết xứ sở.
Bão Pam đã thổi qua Vanuatu trong 5 ngày liên tiếp dạo tháng 3 vừa qua. Phần lớn dân số nước này lâm cảnh màn trời chiếu đất, 90 phần trăm cơ sở ở Thủ đô Port Vila bị thiệt hại nặng nề. Port Vila được xem là thành phố dễ bị tổn thương nhất trên thế giới mỗi khi xảy ra thiên tai. Ngoài bão lụt, thủ đô Port Vila còn bị đe dọa triền miên bởi sóng thần và động đất. Là một quần đảo, lại nằm trong vùng nhiệt đới, Vanuatu luôn bị đe dọa bởi mưa bão.
Bên ngoài Thủ đô Port Vila, các đảo khác của Vanuatu cũng không an toàn hơn. Đã vậy, mỗi khi xảy ra thiên tai, việc cứu trợ lại không được hữu hiệu. Vì tham nhũng và thiếu phối trí, Chính phủ Vanuatu không được các cơ quan cứu trợ và tổ chức từ thiện hợp tác. Sau trận bão Pam vừa qua, đã có đến hàng trăm cơ quan và tổ chức tôn giáo tham gia cứu trợ, nhưng chỉ có một số nhỏ chịu hợp tác với chính phủ.
Là một quần đảo được khai sinh từ núi lửa, Vanuatu cách Úc Đại Lợi về phía Bắc khoảng 1750 cây số, cách New Caledonia về hướng Đông Bắc 500 cây số và là nước láng giềng của New Guinea, Solomon Islands và Fiji.
Qua một số di tích, các nhà khảo cổ cho rằng quần đảo Vanuatu đã có người đến ở cách đây khoảng 4000 năm. Những mnh sứ được tìm thấy ở đây đã được làm ra trước Công nguyên đến cả trên cả ngàn năm.
Các nhà thám hiểm Âu Châu đã khám phá được Vanuatu vào đầu Thế kỷ 17, nhưng mãi đến năm 1768, họ mới chính thức trở lại đây. Năm 1774, Thuyền trưởng Cook đặt tên cho quần đảo này là “New Hebrides”. Tên này được sử dụng mãi cho đến khi Vanuatu được độc lập hồi  năm 1980.
Năm 1825, khi người lái buôn tên là Peter Dillon khám phá được gỗ đàn hương (sandalwood) tại đảo Erromango, nhiều người di dân từ các nước đã đổ xô đến đây để làm ăn. Tuy nhiên, giữa người di dân và người bản xứ gốc Polynesian đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ khiến làn sóng di dân chấm dứt. Vào thập niên 1860, nhu cầu canh tác tại Úc Đại Lợi, Fiji và Solomon Islands đã khiến nhiều người bản xứ rời bỏ xứ sở để đi làm ăn xa.
Vào thế kỷ 19, các nhà truyền giáo Công giáo và Tin Lành từ Âu Châu và Bắc Mỹ đã đến Vanuatu để truyền đạo. Cùng với các nhà truyền giáo, người Tây Phương cũng sang chiếm đất để mở các đồn điền trồng bông vải. Nhưng khi giá bông vải trên thị trường thế giới sút giảm, các chủ đồn điền mới chuyển sang trồng cà phê, cacoa, chuối và nhất là dừa. Lúc đầu, phần lớn các chủ đồn điền và dân nhập cư là người Anh xuất phát từ Úc Đại Lợi. Về sau, người Pháp từ New Caledonia cũng tràn qua. Vào đầu thế kỷ 20, dân nhập cư gốc Pháp đông gp 2 lần người Anh.
Vì quyền lợi của dân mình, cả Pháp và Anh Quốc, ai cũng đều muốn sát nhập Vanuatu vào lãnh thổ của mình. Nhưng năm 1906, hai nước này đã thỏa thuận chia chác với nhau để cùng quản lý quần đảo Vanuatu. Được đặt tên là “Condominium” (đồng trị) của Anh Pháp, Vanuatu có một chính phủ độc nhất vô nhị trên thế giới từ trước đến nay.
Đầu thập niên 1940, người dân Vanuatu bắt đầu chống lại hình thức cai trị này. Trong Đệ nhị Thế chiến, người Mỹ đặt chân đến quần đảo này. Họ mang theo của cải và góp phần khơi dậy tinh thần quốc gia của người dân hải đảo. Người dân đặt niềm tin nơi một nhân vật huyền thoại có tên là John Frum, người có chủ trương giải phóng người dân gốc “Melanesian”. Ngày nay, “John Frum” đã trở thành một tôn giáo và đồng thời cũng là một đảng chính trị.
Đảng chính trị đầu tiên được thành lập tại Vanuatu vào đầu thập niên 1970 lấy tên là “New Hebrides National Party” (Đảng Quốc gia New Hebrides). Một trong những người sáng lập Đảng này là linh mục Walter Lini, về sau trở thành thủ tướng. Năm 1974, lấy tên là Vanua’aku Pati, Đảng này đã đứng ra tranh đấu cho độc lập và Cộng hòa Vanuatu được thành lập năm 1980. Cộng hòa Vanuatu theo dân chủ đại nghị. Theo Hiến pháp nước này, “nguyên thủ quốc gia được gọi là tổng thống, tượng trưng cho sự đoàn kết quốc gia”. Được bầu cử với quyền hạn 5 năm, chức vụ tổng thống Vanuatu chỉ có  tính cách nghi lễ và tượng trưng. Người nắm thực quyền mới là thủ tướng được Quốc Hội bầu lên. Đứng đầu chính phủ, chính thủ tướng là người bổ nhiệm các bộ trưởng.
Chính phủ và xã hội Vanuatu được phân chia dựa theo hai ngôn ngữ chính là Anh và Pháp. Đây là lý do khiến việc thành lập chính phủ liên minh không phải là việc dễ dàng tại nước này. Trong khi các chính trị gia nói tiếng Pháp có khuynh hướng bảo thủ và ủng hộ việc duy trì quan hệ mật thiết với “mẫu quốc” Pháp và Tây Phương thì những người nói tiếng Anh, mà đại diện là Đảng Vanua’aku Pati, lại theo khuynh hướng xã hội và chống thực dân. Thật ra bên cạnh tiếng Anh và tiếng Pháp, người dân Vanuatu còn có ngôn ngữ chính là tiếng “Bislama”. Và song song với tiếng “Brislama”, còn có cả hàng trăm thổ ngữ khác vẫn còn được người dân Vanuatu sử dụng. Tính theo tỷ lệ, Vanuatu là nơi có nhiều thứ tiếng nhất: trung bình cứ 2000 người thì có một thứ tiếng.
Vốn không có mỏ dầu và các thứ quặng mỏ khác, Vanuatu chỉ biết sống dựa vào nông nghiệp, ngư nghiệp và du lịch. Nông sản được làm ra để xuất khẩu và nuôi sống đến 65 phần trăm dân số. Riêng kỹ nghệ du lịch đưa về một lượng ngoại tệ đáng kể. Vanuatu được nhìn nhận như một trong những điểm đến của những người thích lặn xuống biển để thám thính những bãi san hô trong vùng Nam Thái Bình Dương. Những tay thợ lặn cũng bị thu hút bởi xác của chiếc tàu du lịch được biến thành chiến hạm “SS President Coolidge” trong đảo Espiritu Santo. Bị đánh chìm trong thời ĐNhị Thế chiến, đây là một trong những xác tàu nổi tiếng nhất thế giới được biến thành nơi giải trí cho các thợ lặn.
Kỹ nghệ du lịch đã biến Vanuatu thành một trong những “thiên đàng” đối với các chương trình truyền hình thực tế. Như chương trình “Survivor” (sống sót) chẳng hạn được dàn dựng và quay tại Vanuatu.
Là một nước kém phát triển, Vanuatu chưa có đủ điều kiện để nâng cao trình độ giáo dục của người dân. Nước này chưa có chính sách cưỡng bách giáo dục. Tỷ lệ trẻ em cắp sách đến trường vẫn còn rất thp. Tình trạng y tế tại Vanuatu cũng còn rất thô sơ. 80 phần trăm dân số nước này sống ở nông thôn. Do bị cô lập về địa lý, người dân không hưởng được đy đủ các dịch vụ y tế cơ bản. Các Giáo hội và các tổ chức không chính phủ đang cố gắng bù đắp phần nào cho những thiếu sót này, nhưng chỉ giải quyết được một số nhu cầu cơ bản của người dân ở các vùng nông thôn mà thôi. Các dịch vụ y tế và giáo dục của chính phủ hiện đang phải đương đầu với tình trạng “nhân mãn” của dân nghèo sống ở các khu ổ chuột tại Thủ đô Port Vila và một thành phố lớn khác là Luganville. Dù vậy, các số liệu chính thức cho thấy tử suất của trẻ con đã có phần thuyên giảm trong hậu bán thế kỷ 20 vừa qua: năm 1967, cứ một ngàn người dân có đến 123 đứa trẻ chết; vào năm 1999, tỷ lệ này chỉ còn 25.


(Theo the Diplomat Oct 15,2015:Trouble in Paradise: Intrigue and Corruption in Vanuatu)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét