Chu Thập
20.11.15
“Nhân danh Đấng Allah, Đấng Từ Bi Vô
Cùng, Đấng Thiện Hảo Vô Biên. Đấng Allah đã phán: “Chúng nó nghĩ rằng thành lũy
của chúng sẽ bảo vệ chúng khỏi Đấng Allah, nhưng Đấng Allah đã đến những nơi chúng
không ngờ và Người đã gieo rắc kinh hãi vào
trái tim chúng để chúng dùng bàn tay của chính mình và bàn tay của các tín đồ để
phá hủy nhà cửa của chúng...
Đấng Allah đã chúc lành cho những người anh em của chúng
tôi và ban thưởng cho họ những gì họ đã mong ước. Họ đã cho nổ bom trong đám
đông của quân ngoại đạo...Chúng tôi nguyện xin Đấng Allah đón nhận họ vào hàng
ngũ các vị tử đạo và cũng cho chúng tôi được bước theo chân họ...
Pháp Quốc và tất cả những quốc gia đi theo
con đường của nước này hãy nhớ rằng chúng sẽ tiếp tục đứng đầu danh sách trong
mục tiêu của Nhà nước Hồi giáo và mùi tử khí sẽ không bao giờ rời khỏi lỗ mũi của
chúng bao lâu chúng tham gia vào chiến dịch “thập tự chinh”, bao lâu chúng dám
nguyền rủa Đấng Tiên Tri và bao lâu chúng khoe khoang về cuộc chiến chống lại Hồi
Giáo tại Pháp và ném bom xuống người Hồi Giáo tại những vùng đất của vương quốc
Hồi Giáo...
Chúc tụng Đấng Allah Tối Cao!”
Trên đây là một vài trích đoạn trong bản “tuyên ngôn” được Tổ chức “Nhà nước
Hồi giáo” cho công bố liền sau cuộc khủng bố tại Paris, Pháp Quốc hôm 13 tháng
11 vừa qua. Tôi đọc bản tuyên ngôn mà thấy lạnh người. Đây quả là một cuộc chiến
tranh tôn giáo và cuộc chiến tranh tôn giáo này không chỉ diễn ra tại một số
nơi mà đã mang chiều kích “toàn cầu”. Bất cứ “kẻ ngoại đạo” nào trên trái đất
này cũng đều có thể là mục tiêu của tổ chức khủng bố “Nhà nước Hồi Giáo”. Khiếp
quá! Bước vào thế kỷ 21 rồi mà chiến tranh tôn giáo vẫn tiếp diễn và với một cường
độ man rợ, khủng khiếp hơn bao giờ hết.
Lịch sử thế giới được viết bằng chiến tranh và chiến tranh tôn giáo có lẽ lại
là những trang chính. Đọc lại Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái Giáo và Kitô Giáo,
tôi thấy đó là lịch sử của một cuộc chiến triền miên giữa một dân tộc theo độc
thần giáo và những dân tộc theo đa thần giáo. Khi Kitô Giáo vừa chớm nở trong đế
quốc La Mã, tôn giáo này cũng đã bị bách hại dã man chỉ vì bị xem như một thứ
tà đạo trái với quốc giáo của đế quốc là đa thần giáo. Thời Trung Cổ, tuy không
còn là một cuộc chiến giữa độc thần và đa thần, những cuộc thập tự viễn chinh
do các nước Tây Phương phát động trong thực chất lại càng mang bộ mặt chiến
tranh tôn giáo hơn. Và dĩ nhiên, ngay tại Âu Châu, chiến tranh tôn giáo lại
càng dã man hơn khi chính những người cùng tuyên xưng một Chúa Kitô là Tin Lành
và Công Giáo lại chém giết lẫn nhau. Trên một phương diện nào đó, những cuộc
bách hại tôn giáo trong các chế độ cộng sản vô thần cũng là những cuộc chiến
tranh tôn giáo: khi chủ nghĩa vô thần được tuyên xưng như một tôn giáo, thì các
tín đồ của tôn giáo này lại càng tỏ ra hung hãn và độc ác hơn. Ngay như trong
thời cấm đạo và bắt đạo ở Việt Nam, các tín hữu Kitô bị bách hại dã man chỉ vì
cái nhãn hiệu “theo Tây”. Thật ra “theo
Tây” chỉ là một cái cớ. Nguyên cớ chính vẫn là tôn giáo bị các vua chúa Việt
Nam xem như “tà đạo” đi ngược lại với
truyền thống văn hóa và tôn giáo của dân tộc.
Ôn lại một chút về lịch sử và nhìn vào cuộc khủng bố vừa mới xảy ra ở Pháp
Quốc, tôi cảm thấy ngao ngán và tự hỏi: giả như không có tôn giáo, thì bộ mặt của
thế giới này có tốt đẹp hơn không? Bất giác tôi lại nghĩ đến ca khúc “Imagine”
(hãy thử tưởng tượng) nổi tiếng của cố nhạc sĩ John Lennon (1940-1980) của
ban nhạc The Beatles. Đây là “tuyên ngôn” hòa bình của người nhạc sĩ tài ba
nhưng yểu mệnh này. Trong ca khúc, tôi đặc biệt chú ý đến câu: “Hãy thử tưởng
tượng cũng chẳng có tôn giáo...mọi dân tộc sống trong hòa bình”. Tôi dễ bị cám
dỗ để nghĩ rằng tôn giáo chính là giềng mối làm phát sinh ra đố kỵ, chia rẽ, hận
thù, chiến tranh. Tôi tin chắc rằng có rất nhiều người, tuy không theo chủ
nghĩa vô thần, cũng có cùng một cơn cám dỗ như tôi để nghĩ về tôn giáo như thế.
Chiến tranh tôn giáo thường xảy ra khi con người cho mình “độc quyền” chiếm hữu
chân lý để sẵn sàng “ra vạ tuyệt thông” cho những ai không có cùng niềm tin với
mình. Sự tôn trọng, lòng yêu thương, sự cảm thông và khoan nhượng vốn là cốt
lõi của mọi tôn giáo, dễ bị đặt xuống hàng thứ yếu để đưa “chân lý”độc quyền
lên địa vị độc tôn và sẵn sàng ăn thua đủ và ngay cả chết để bảo vệ “chân lý”.
Theo chương trình “The Drum” của Đài ABC Úc, kết quả của một cuộc nghiên cứu
mới đây do Trường Đại học Chicago, Hoa Kỳ thực hiện cho thấy tôn giáo khiến cho
trẻ em trở nên ích kỷ và ít thông cảm với người khác hơn. Cuộc nghiên cứu đã được
thực hiện với 1.170 trẻ em tuổi từ 5 đến 12 thuộc 6 quốc gia. Trong số các em
tham gia cuộc nghiên cứu, 23.9 phần trăm tự nhận là Kitô hữu, 43 phần trăm theo
Hồi Giáo và 27.6 phần trăm thuộc những gia đình không theo tôn giáo nào.
Trong cuộc thử nghiệm, các em được đặt vào một không gian không đủ rộng cho
mọi người. Mục đích của cuộc thử nghiệm là để xem các em có biết “chia sẻ” với
nhau không. Ngoài ra, các em cũng được cho xem những hình ảnh cho thấy cảnh xô
đẩy giành giựt để dò xét phản ứng của các em.
Các nhà nghiên cứu của Trường Đại học Chicago nói rằng kết quả của cuộc thử
nghiệm “chứng minh một cách hùng hồn rằng trẻ con xuất thân từ những gia đình
thuộc hai tôn giáo lớn (Kitô Giáo và Hồi Giáo) tỏ ra ít vị tha hơn các em thuộc
những gia đình không theo tôn giáo nào”. Kết quả này lại càng rõ nét hơn nơi những
em nhiều tuổi hơn và đã từng tham gia các sinh hoạt tôn giáo.
Ngoài ra, khi so sánh các em thuộc các gia đình Kitô Giáo với các gia đình
Hồi Giáo, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy rằng trẻ em Hồi Giáo tỏ ra ít cảm
thông hơn: cứ thấy người phạm lỗi, các em này yêu cầu phải trừng phạt cho thích
đáng. Theo các nhà nghiên cứu, trẻ em thuộc những gia đình không theo tôn giáo
nào tỏ ra hòa hoãn và ít có thái độ “lên án” hơn.
Là một người có tôn giáo và “thực hành đạo” từ tuổi thơ cho đến lúc đầu bạc
răng long như hiện nay, tôi cảm thấy bối rối khi đọc kết quả của cuộc nghiên cứu
của Trường Đại học Chicago trên đây. Nếu mỗi ngày tôi có cố gắng sống cho ra
người tử tế hơn là bởi đã được tưới tẩm và nhào nặn bằng đạo lý của tôn giáo mà
tôi đang thực hành. Xét cho cùng, tôn giáo của tôi luôn dạy tôi phải cố gắng sống
cho ra người tốt hơn. Nhưng kinh nghiệm hàng ngày lại cũng nói với tôi rằng con
người ta cũng có thể là người tốt mà chẳng cần phải theo một tôn giáo nào cả.
Tôi có một người bạn trẻ hơn tôi. Vợ anh là người đồng đạo với tôi. Riêng anh
đã có lần tâm sự với tôi: anh chẳng tin có Thượng Đế và cũng chẳng theo tôn
giáo nào cả. Nhưng với tôi, anh không chỉ là một người bạn tốt, mà còn là một
niềm cảm hứng để tôi biết sống vị tha, cảm thông và khoan nhượng. Dưới con mắt
của tôi, anh là người “có đạo” hơn tôi.
Tôi cũng nhận thấy như thế nơi một số thanh thiếu niên Úc, Việt mà tôi quen
biết. Họ cũng sinh ra và được giáo dục trong một gia đình “có đạo” như tôi.
Nhưng đến một lúc nào đó, họ bước chân ra khỏi nhà thờ và chẳng bao giờ trở lại
nữa. Vậy mà trong cuộc sống hàng ngày, tôi thấy họ tỏ ra tôn trọng người khác,
tuân thủ luật pháp, ý thức về công bằng và nhứt là quảng đại để chia sẻ với người
khác hơn tôi nhiều. Sống như thế mà không “có đạo” sao?
Tôi cho rằng kết quả của cuộc nghiên cứu của Trường Đại học Chicago phản ảnh
phần nào một thực tế đáng buồn về ảnh hưởng của tôn giáo đối với cuộc sống và
cách hành xử của con người. Nhưng nói qua thì cũng phải nói lại. Trong cuốn
sách có tựa đề “American Grace. How Religion Divides and Unites Us” (Hồng ân Mỹ
Quốc. Tôn giáo chia rẽ và liên kết chúng ta) xuất bản năm 2010, tác giả Robert
Putnam ghi nhận rằng những người Mỹ có tôn giáo là những người làm việc thiện
nguyện tích cực nhứt; họ là những nhà từ
thiện vị tha và quảng đại hơn những người không có tôn giáo. Cũng theo tác giả,
những người Mỹ có tôn giáo là những người láng giềng tốt, biết nghĩ đến cộng đồng
và sẵn sàng làm việc thiện nguyện hơn người khác, chớ không chỉ biết đến nhà thờ;
họ luôn sẵn sàng hiến máu, chia sẻ tiền bạc cho những người vô gia cư, giúp đỡ
tài chính cho gia đình hay bạn bè, nhường chỗ cho người lạ mặt và dành thời giờ
để “ngồi xuống” với những ai đang gặp thử thách. Theo tác giả, nói chung Hoa Kỳ
là một quốc gia quảng đại. Nhưng về lòng quảng đại có sự khác biệt rõ ràng giữa
những người có tôn giáo và những người không theo tôn giáo nào.
Riêng về Úc Đại Lợi, một cuộc thăm dò được công ty “Roy Morgan” chuyên
nghiên cứu về thị trường, kỹ nghệ và tiêu thụ, thực hiện năm 2014 cho thấy rằng
trung bình một người Úc tặng cho các công cuộc từ thiện tính cho đến tháng 6
năm 2014 là 288 Úc kim. Nhưng cũng tính trung bình, một người có tôn giáo tặng 331
Úc kim trong khi một người không theo tôn giáo nào chỉ tặng 221 Úc kim.
Trong cuốn sách có tựa đề “Disconnected” xuất bản năm 2010, tác giả Andrew
Leigh, tốt nghiệp tiến sĩ về xã hội học tại đại học Harvard, cựu giáo sư kinh tế
tại trường Đại học Quốc gia Canberra, hiện đang là dân biểu liên bang thuộc Đảng
Lao Động, mặc dù vẫn luôn tự nhận là một người vô thần, đã nói đến những lợi
ích không thể chối cãi được của niềm tin tôn giáo. Ông cho biết: trong số những
người “thực hành đạo”, tức đến nhà thờ mỗi ngày chúa nhựt, có 25 phần trăm tham
gia vào công tác cộng đồng hay một hiệp hội dân sự. Trong khi đó, với những người
không thực hành đạo, tỷ lệ này chỉ được 12 phần trăm. Theo ông, những người có
tôn giáo dễ xây dựng tình thân hữu với những người không thuộc giai cấp xã hội
của mình và như vậy cũng dễ tạo được sự tin tưởng nơi người khác.
Với tôi, sinh hoạt tôn giáo không phải là một cuộc thi đua hay tranh tài để
chứng minh tôn giáo của mình tốt hơn tôn giáo của người khác hay người “có đạo”
tốt hơn người “không có đạo”. Nếu có so sánh thì tôi lại thấy mình “kém xa” người
đồng đạo và có khi còn tệ hơn cả những người “không có đạo”. Tôi chỉ biết chắc
một điều: tôn giáo mà tôi cho là tốt nhứt đối với tôi luôn thúc đẩy tôi phải cố
gắng không ngừng để sống tử tế hơn và thế giới này chắc chắn sẽ là một nơi tốt
đẹp hơn nhờ sự đóng góp của tôn giáo.
Xét mình tận căn, tôi thấy nếu không có một ý thức rõ ràng, tôi dễ rộng rãi
trong việc từ thiện bác ái trong cộng đồng tôn giáo của tôi, nhưng lại do dự
suy tính khi thực hiện cùng một việc bác ái đối với “người ngoài”. Sự rộng rãi
trong hành động của tôi cũng không thường đi đôi với sự cởi mở trong suy nghĩ. Vì
thực hành chia sẻ là “bản năng thương cảm” đã cắm rễ sâu trong trái tim trong khi ý thức cởi mở bao dung lại đòi hỏi tôi suy xét dựa trên lẽ phải. Tôi thấy mình
dễ mở rộng hầu bao nhưng lại chưa sẵn sàng tiếp nhận, cảm thông và đối thoại với
những khác biệt.
“Hãy tưởng tượng một thế giới không có tôn giáo”. Nếu còn sống và được làm
người “thường trú” trong thiên đàng cộng sản như ở Liên Xô, Trung Cộng hay Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cố nhạc sĩ John Lennon sẽ thấy được bộ mặt của một
thế giới không có tôn giáo. Có thể tôi sẽ không tuyên xưng đức tin theo Kinh
Tin Kính tôi phải đọc mỗi ngày chúa nhựt, nhưng tôi tin rằng thế giới này sẽ tốt
đẹp hơn nếu người có đạo xác tín rằng cốt lõi của bất cứ một tôn giáo hay đạo
lý nào chính là tình thương vô vị lợi, thái độ khoan nhượng, lòng cảm thông và
sự tha thứ. Nếu cái cốt lõi ấy được hiểu, được thực thi, được truyền dạy...thì
làm gì có khủng bố nhân danh Thượng Đế hay chiến tranh tôn giáo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét