Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2015

Khi người khổng lồ không có trái tim


Chu Thập
6.11.15

Nhạc mẫu tôi đang ở Việt Nam. Năm nào bà cũng làm một chuyến về thăm quê hương và người thân. Mặc dù đã cao tuổi, bà vẫn còn khỏe mạnh và minh mẫn. Khi lái xe, bà cũng lượn qua lượn lại như ai. Còn nói về các khoản Iphone, Ipad hay Facebook, bà qua mặt tôi rất xa. Ngày nào bà cũng lên mạng và tin tức nào cũng nằm trong tầm tay “săn đuổi” của bà. Năm nay, từ Việt Nam, bà làm “thông tín viên” để gởi về Úc không biết bao nhiêu tin tức quốc nội và quốc ngoại. Trong lượng thông tin hầu như quá tải do bà chuyển về, vì tình hình sôi sục ở Biển Đông, tôi đặc biệt chú ý đến một thước phim trên “YouTube” về cách ăn uống của người Trung Quốc xã hội chủ nghĩa. Thước phim ghi lại cảnh giành giựt và “hôi của” theo đúng nghĩa đen trong một nhà hàng “muốn ăn bao nhiêu tùy thích” (All you can eat).
Năm 1985, tôi đến làm việc tại Phi Luật Tân. Vào thời điểm đó, những loại quán ăn như thế đã rất thịnh hành tại quốc gia hải đảo này. Mặc dù Phi Luật Tân không phải là một quốc gia đã phát triển và đa số người dân vẫn còn vất vả với cái ăn cái mặc hàng ngày, nhưng vào bất cứ nhà hàng “muốn ăn bao nhiêu tùy thích” và bất cứ nơi nào, ngay cả hàng rong dọc đường, tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái cảnh “cướp giựt” bát nháo như trong thước phim về Trung Quốc được nhạc mẫu tôi chuyển về. Tôi không thể tưởng tượng được cái cảnh ăn uống phải nói là “khủng khiếp” diễn ra trong một quốc gia có nền kinh tế đứng hàng thứ hai trên thế giới này: đi ăn trong nhà hàng mà lại mang theo bao bị để tranh nhau “thộn” vào cho đầy bất cứ món ăn nào được bày biện trên bàn.
Trong bối cảnh của Biển Đông đang dậy sóng, cái cảnh ăn giành ăn giựt của người dân Trung Cộng trong nhà hàng gợi lên trong tôi hai mặt của cùng một đồng tiền. Một mặt là hành động “cướp giựt” ngang ngược của Trung Cộng trong Biển Đông. Mặt khác là chính sách “mỗi gia đình một con” của quốc gia cộng sản khổng lồ này. Cả hai đều là những hành động cướp bóc. Ở Biển Đông, Trung Cộng cướp biển cướp đảo của các nước khác, trong đó có Việt Nam. Trong nước, với chính sách “mỗi gia đình một con”, họ “cướp” đi mạng sống của không biết bao nhiêu con người. Đây là hai mặt của cùng một đồng tiền là sự “vô đạo” của người cộng sản Trung Quốc.
Chuyện Biển Đông hiện vẫn chưa ngã ngũ. Còn chính sách “mỗi gia đình một con” thì đã rõ. Ngày 29 tháng 10 vừa qua, Trung Cộng đã chính thức loan báo chấm dứt chính sách và cho phép mỗi gia đình được có hai con. Sau 35 năm “cướp” đi mạng sống của không biết bao nhiêu con người và bạo hành đối với gia đình là nền móng của xã hội, những người Cộng Sản mới nhận ra những hậu quả tàn khốc của chính sách vô đạo này. Không nói đến 300 triệu người đang nghiện thuốc lá và trở thành một gánh nặng y tế cho đất nước, 30 triệu đàn ông “thặng dư” được sản sinh từ chính sách một con cũng tạo ra không biết bao nhiêu hệ quả cho sự cân bằng xã hội. Đó là chưa kể đến sự già nua của dân số.
Trong lịch sử nhân loại, chưa có nơi nào trên thế giới người ta đã chứng kiến một chính sách hạn chế sinh sản tàn bạo, độc ác và vô nhân đạo như ở Trung Cộng. Năm vừa qua bên Pháp, người ta thấy xuất hiện một quyển tiểu thuyết viết về chính sách này. Tác giả của cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Pháp với nhan đề “La Route Sombre” (con đường tăm tối) là ông Ma Jian, người đã sống lưu vong tại Anh Quốc từ năm 1987. Tuy là tiểu thuyết, nhưng cuốn sách của ông Ma Jian thuật lại câu chuyện mà ông cho là một sự thật cần phải phơi bày cho thế giới thấy. Theo câu chuyện, một thôn nữ tên là  Meili kết hôn với một thanh niên tên là Kongzi, một anh giáo làng hậu duệ của Đức Khổng Tử. Qua câu chuyện, tác giả Ma Jian phơi bày tình trạng khốn khổ của người phụ nữ Trung Hoa. Họ là những người phải sống trên đe dưới búa: một bên là thứ “đạo đức” Khổng Giáo buộc họ phải bằng mọi giá sinh cho chồng một đứa con trai để nối dõi tông đường; bên kia là chính sách một con của một Nhà nước luôn theo dõi rình rập để buộc họ phải phá thai hoặc tuyệt sinh.
Meili và Kongzi đã có một đứa con gái. Nhưng ý thức về nghĩa vụ “thiêng liêng” như Khổng Giáo dạy là phải có một đứa con trai để nối dõi tông đường cho nên hai người đã lén lút sinh thêm một đứa con mà không xin phép nhà nước. Bị công an phát giác, cũng như hàng triệu triệu cặp vợ chồng khác, vì không chấp nhận phá thai, hai vợ chồng Meili và Kongzi  đành phải đi trốn. Họ trốn đến một nơi mà tác giả đặt tên là “thiên xã”. Ở đó người đàn ông hoàn toàn bị tuyệt sinh và đàn bà được làm chủ thân thể của họ. Thật ra đó chỉ là một ảo tưởng, bởi vì theo tác giả Ma Jian, ở Trung Cộng, không có một nơi nào người dân có thể thoát khỏi cặp mắt cú vọ của chính quyền: chính quyền này có mặt khắp nơi, người dân không thể nào có tự do và an toàn.
Đó là điều khủng khiếp nhứt mà chính sách một con của Trung Cộng đã tạo ra cho người dân từ 35 năm qua. Nhưng cũng khủng khiếp không kém đó là sự hiện diện của 30 triệu đàn ông bị buộc phải sống độc thân mà chính sách này đã tạo ra. Phải giải quyết vấn đề này như thế nào? Đây quả là một bài toán nhức óc cho các nhà xã hội học. Nhưng một ông giáo sư kinh tế tại Trường đại học Tài chính và Kinh tế ở Chiết Giang là ông Xie Zuochi mới đây lại nhào vô để đưa ra một “phương án” độc đáo: cho phép phụ nữ đa phu. Nói cách khác, để giải quyết nạn trai thừa gái thiếu, ông giáo sư kinh tế này đề nghị hoặc là cho phép phụ nữ cưới nhiều chồng hoặc là những người đàn ông đang có vợ nên “san sẻ” vợ mình với những người đàn ông độc thân. Liệu ông giáo sư này có dám đi bước tiên phong để “san sẻ” bà vợ của mình với những người đàn ông khác không?
Không biết  ông giáo sư này và giới mày râu ở Trung Cộng có sẵn sàng chấp nhận cuộc sống hôn nhân “vợ chung” này không. Chớ còn cái chuyện bắt người phụ nữ phải sống cái cảnh “chồng chung” thì có lẽ chẳng có nơi nào trên thế giới thịnh hành cho bằng ở  Trung Cộng hiện nay. Tạp chí Time số ra ngày 2 tháng 11 vừa qua đã cho đăng một bài phóng sự về tình trạng “năm thê bảy thiếp”, dĩ nhiên một cách lén lút, của các viên chức chính phủ Trung Cộng. Theo một cuộc nghiên cứu được Đại học “Jenmin” thực hiện và được báo Time trích dẫn, có đến 95 phần trăm các viên chức cấp cao trong chính phủ bị bắt giữ vì tham nhũng hồi năm 2010 đều có “phòng nhì”. Sự thất sủng của 60 phần trăm viên chức này đều dính líu đến chuyện bồ bịch ngoài hôn nhân. Trường hợp nổi tiếng nhứt là chuyện của ông Ji Yingnan, phó giám đốc của Phòng văn khố quốc gia. Sau một thời gian đi lại với ông và được ông tặng cho không biết bao nhiêu quà cáp đắt tiền, một cô gái nhỏ hơn ông 15 tuổi đã đứng ra tố cáo ông, khi biết ông là người đã có vợ. Giá trị của hiện vật ông tặng cho cô lên đến 1.6 triệu Mỹ kim, trong khi lương của ông, dù là một viên chức cao cấp trong chính phủ, cũng không cao lắm. Ngay cả lương của Chủ tịch Tập Cận Bình mỗi năm cũng chỉ có khoảng 20 ngàn Mỹ kim. Đồ tể này hiện đang mở chiến dịch bài trừ tham nhũng trong chính phủ, vì theo lời ông “tham nhũng có thể tiêu diệt Đảng và phá hoại xứ sở”. Nhưng nhiều người cũng nêu lên thắc mắc về cá nhân ông: với số lương một năm chỉ có khoảng 20 ngàn Mỹ kim, lấy đâu ra tiền để ông gởi cô con gái rượu theo học tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ với một tên tuổi khác. Về tham nhũng, ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam tỏ ra “trong suốt” hơn: cả 3 đứa con của ông đều theo học tại Anh và Mỹ với tiền thuế của dân nghèo Việt Nam, mà chẳng cần phải dấu diếm gì cả!
Chống tham nhũng không thành như ở Việt Nam thì đành câm miệng. Còn ở Trung Cộng, thay vì qui trách cho quyền lực và tiền bạc là nguyên nhân đẻ ra tham nhũng và những tệ đoan khác, người ta lại trút hết trách nhiệm lên đầu người đàn bà. Người ta bảo rằng “Lịch sử Trung Quốc, vốn được viết bởi người đàn ông, nhưng lại đầy dẫy những chuyện đàn bà sai khiến các vua chúa làm điều xấu hoặc gây ra bao nhiêu rắc rối”. Một ông giáo sư Trung Quốc hiện đang giảng dạy tại Viện nghiên cứu Á và Phi học ở London, đã giải thích như thế. Ông này còn khẳng định: “Một nữ tình nhân tham lam là kẻ thù của nhân dân. Đây là điều đã từng có trong truyền thống lâu dài của Trung Quốc”.
Tuy nhiên, xưa kia, đàn ông Trung Hoa có “sung” cỡ nào thì cũng chỉ có “năm thê bảy thiếp” là cùng. Nay, theo các số liệu được chính các cơ quan truyền thông Nhà nước phổ biến, các viên chức cấp cao muốn có bao nhiêu thê thiếp cũng được. Chẳng hạn như ông Liu Zhijun, cựu Bộ trưởng Hỏa xa, có tới 18 tình nhân một lúc, ông Xu Mengjia, Bí thư Đảng tại thành phố Ya’an có tất cả 30 tình nhân. Còn ông Long Jing, Trưởng phòng Hỏa xa Thượng Hải, có đến 47 tình nhân. Đó là những gương mặt được mang ra ánh sáng. Còn có biết bao nhiêu viên chức chính phủ khác mà chuyện tham lạm công quỹ để ăn chơi đàng điếm hoặc chưa được phanh phui hoặc được bao che.
Suy nghĩ về hiện tượng này, tôi cho rằng nguyên nhân của nó chính là nền kinh tế không hồn của Trung Cộng. Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa thường nói rằng “kinh tế cũng là chính trị”. Riêng tôi nghĩ rằng “kinh tế cũng là đạo đức”. Dưới thời Mao Trạch Đông, con ếch ngồi đáy giếng Trung Cộng, muốn bằng mọi giá phải có một nền kinh tế mạnh bằng kinh tế Anh Quốc cho nên mới phát động điều mà người ta gọi là “lò luyện kim sau hè”. Triệu triệu sinh linh được biến thành phương tiện để bị thiêu sống trong cái lò luyện kim sau hè ấy. Tới thời Đặng Tiểu Bình, với khẩu hiệu “làm giàu là vinh quang”, và lập luận “mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột” (nghĩa là bằng mọi phương tiện ngay cả bất chính và vô đạo), kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tích ngoạn mục chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Nhưng cái giá phải trả vẫn là hy sinh phẩm giá con người và mọi giá trị đạo đức. Trung Cộng hiện nay đã hiện nguyên hình như một người khổng lồ không có trái tim như được tác giả Trần Duy của thời Nhân văn Giai phẩm ngoài Bắc đã dự báo (x.Trần Duy, Những Người Khổng Lồ, trong “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc”, Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa).
Tôi cảm thấy buồn khi theo dõi bài diễn văn được cựu thủ tướng Úc của tôi là ông Tony Abbott đọc tại Anh Quốc hôm 27 tháng 10 vừa qua, nhân dịp ôn lại di sản của cố thủ tướng Anh Margaret Thatcher. Ông “lên lớp” các nhà lãnh đạo Âu Châu về chính sách đối với người tầm trú và cho rằng chính vì thực thi giáo huấn của Kitô Giáo “yêu thương tha nhân như chính mình” mà các nước Âu Châu ngày nay phải trải qua cuộc khủng hoảng về người tầm trú.  Có lẽ ông Abbott quên rằng chính giới răn đó đã từng là động lực phát triển của nền văn minh Tây Phương, đặt nền móng cho những ý niệm như nhân phẩm, nhân quyền, dân chủ và tình liên đới nhân loại.
Thật ra, “yêu thương tha nhân như chính mình” đâu phải là giới răn riêng của Ki Tô Giáo. Đạo lý của bất cứ dân tộc và nền văn hóa nào mà chẳng dạy như thế. Người Việt Nam nào mà chẳng thuộc nằm lòng câu: “Thương người như thể thương thân”. Sự tồn vong của bất cứ dân tộc nào cũng tùy thuộc vào đạo lý ấy. Đạo lý ấy chính là trái tim mà người khổng lồ Trung Quốc đang đánh mất. Xét cho cùng,  giá trị đích thực của con người, cũng không được thẩm định dựa trên tài sản vật chất hoặc những thành tích họ đạt được, mà thiết yếu bằng chính cuộc sống được xây dựng trên đạo lý ấy mà thôi.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét