Chu Thậ
26/10/18
Lúc nhỏ tôi thích đánh lộn. Nhà nghèo, thiếu ăn, nhưng nhờ
có sức chịu đựng, dẻo dai cho nên tôi chẳng chịu thua bất cứ đối thủ nào. Hễ có
khiêu khích thì cho dù đối phương có to con cỡ nào tôi cũng nhào vô húc. Mà
đánh đâu thắng đó cho nên tôi giữ chức “cầm đồng” trong cả xóm, cả làng.
Thời đó, tức những năm đầu của thập niên 1950, phim chưởng
hay võ thuật chưa xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Trong các rạp “xi nê” chỉ
có phim ca vũ nhạc Ấn Độ, quỷ nhập tràng
của Phi Luật Tân và cao bồi “viễn tây” của Mỹ. Người hùng của lũ trẻ chúng tôi
dĩ nhiên chỉ có thể là mấy tay cao bồi bắn đâu trúng đó và thọi ai thì người đó
gục. Tôi được hun đúc với thứ triết lý sống: tất cả mọi vấn đề đều có thể và phải
được giải quyết bằng cơ bắp và súng đạn, nghĩa là bằng bạo lực.
Không ngờ triết lý ấy lại đeo đuổi tôi suốt đời. Phải có
những lúc hồi tâm, dùng lý trí để suy nghĩ, dùng trái tim để cảm thông, tôi mới
nhận thấy rằng bạo lực chỉ là biểu hiện của sự yếu nhược. Ngoài ra, càng thêm
tuổi, tôi cũng càng ý thức rằng một người có tư cách và trưởng thành không thể
xem bạo lực như biểu hiện của một sức mạnh đích thực. Tôi càng thêm tuổi thì
người hùng của cơ bắp và súng đạn cũng càng mờ nhạt đi để nhường chỗ cho những
mẫu người biết xây dựng hòa bình và tranh đấu bằng con đường bất bạo động. Một
sự tiến hóa như thế có lẽ không chỉ đúng cho cá nhân tôi, mà cũng áp dụng cho toàn thể nhân
loại. Con người ngày càng vươn lên từ bạo
lực đến hòa bình. Đi ngược lại sự tiến hóa ấy là tự kết án vào chỗ chết.
Thời còn ăn lông ở lỗ, con người xem bạo lực như khí giới
duy nhứt để chống đỡ với kẻ thù. Để chống chọi với thiên nhiên trong đó các
loài thú dữ lúc nào cũng rình rập để cắn xé hoặc các bộ tộc khác vốn luôn cạnh
tranh và đe dọa, con người không có một sự chọn lựa nào khác hơn là dùng sức mạnh
của cơ bắp để sống còn.
Nhưng qua tiến trình tiến hóa, con người ngày càng trở
nên văn minh hơn. Họ biết liên kết với nhau để xây dựng những nền tảng chung,
luật lệ chung cũng như học biết cái hay cái mới và từ đó biết tránh xung đột và
bạo lực không cần thiết. Tuy nhiên, cũng như trong đời sống của một cá nhân, sự
trưởng thành của nhân loại cũng gập ghềnh không kém. Bạo lực vẫn tiếp tục xen
vào ý thức và khát vọng hòa bình của con người. Lịch sử của nhân loại dường như
cũng là lịch sử của chiến tranh. Trước Thế kỷ 20, thế giới đã bị cày xéo bởi
không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh. Trong Thế kỷ 20, hai cuộc đại chiến, những
cuộc nội chiến, những cuộc diệt chủng đã diễn ra ở mức độ tàn khốc chưa từng thấy.
Từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay, mức độ bạo lực trong thế giới có giảm đi nhiều,
nhưng bạo lực vẫn còn tiềm ẩn trong trái tim con người, ngay cả trong những nước
dân chủ và văn minh. Hoa Kỳ là một trường hợp điển hình. Theo thống kê, chỉ
trong năm 2015, có đến 372 vụ xả súng bắn người hàng loạt, khiến cho 475 người
bị thiệt mạng và gần 2 ngàn người bị thương. Tính theo tỷ lệ, số người bị giết
vì súng đạn tại Hoa Kỳ nhiều gấp 30 lần so với Anh quốc. Từ năm 1968 đến năm
2011, tại Hoa Kỳ có không dưới 1.4 triệu người chết vì súng đạn, trong khi đó
chỉ có 1.2 triệu người chết vì chiến tranh nếu tính từ cuộc chiến giành độc lập (1776) cho đến cuộc
chiến tại Iraq. Các tội phạm mang tính bạo lực, từ giết người, hiếp dâm, cướp
bóc và bạo hành, chỉ trong năm 2015 thôi, đã lên đến 1.25 triệu vụ.
(x.Phạm Phú Khải, https://www.voatiengviet.com/a/bao-luc-bieu-tinh-bat-bao-dong/4456940.html).
Ông bà ta dạy: gần mực thì đen gần đèn thì sáng. Bạo lực
có tính lây lan. Lúc nhỏ, lũ trẻ nhà quê
chúng tôi thường bị các bà mẹ la rày về chuyện “tùng tam tụ ngũ” với
nhau để “phá xóm phá làng”, để đánh nhau với các “băng đảng” của những xóm
khác. Băng đảng hay bè bạn nói chung là mảnh đất tốt để làm phát sinh và nuôi
dưỡng bạo lực. Cũng như lòng vị tha và sự tử tế có thể mang lại niềm vui cho
người thọ ơn lẫn kẻ thi ơn thì người gây bạo lực và chính nạn nhân của bạo lực
cũng thường làm cho bạo lực bùng cháy như lửa. Theo kết quả của một số cuộc
nghiên cứu được thực hiện hồi năm 2016, thanh thiếu niên tại Hoa Kỳ thường gây
bạo lực nếu một trong những người bạn của họ đã phạm tội. Điều này cho thấy những
người nghĩ đến bạo lực hay sử dụng bạo lực thường tìm đến nhau và ngày nay các
mạng lưới xã hội đã vô tình trở thành nơi dung dưỡng bạo lực. Một khi bạo lực bắt
đầu với các mạng lưới này, nó có nguy cơ lan rộng đến toàn thể các thành viên của
mạng lưới.
Bạo lực lại càng lây lan hơn nếu nó được một nhân vật có
thế giá và ảnh hưởng trong xã hội cổ võ. Dạo tháng Năm năm vừa qua, trong một
cuộc tranh cử bổ túc tại Tiểu bang Montana, khi bị ký giả Ben Jabobs của báo the
Guardian của Anh chất vấn, dân biểu Greg Gianforte, thuộc Đảng Cộng Hòa, đã có
hành vi bạo động xúc phạm đến thân thể của người ký giả này. Mặc dù đắc cử, dân
biểu này vẫn bị tòa phạt 40 giờ phục vụ cộng đồng và 20 giờ học tập để biết kiềm
chế sự giận dữ. Có thể trong một lúc nóng giận, vì thiếu tự chủ, vị dân biểu
này đã có hành vi nông nổi như thế. Nhưng điều đáng suy nghĩ là mới đây, hôm 18
tháng Mười vừa qua, tại một cuộc tập trung vận động bầu cử tại Thành phố Missoula,
Tiểu bang Montana, Tổng thống Donald Trump đã hô hào đám đông hãy dồn phiếu cho
dân biểu Gianforte. Nhắc lại cử chỉ bạo động của dân biểu Gianforte hồi năm trước,
Tổng thống Trump đã ca ngợi ông này là một “người vĩ đại” (a great guy). Tổng
thống còn nói: “bất cứ ai có thể “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”, đều là mẫu người
của tôi” (Any guy that can do a body slam - he’s my kind of guy). Điều đáng lo
ngại hơn là sau lời “ca ngợi” trên đây của Tổng thống Trump, đám đông đã vỗ tay
reo hò! Đám đông đã cuồng nhiệt tán thưởng một hành vi bạo động cũng như một lời
nói cổ võ bạo động.
Dĩ nhiên, trong một xã hội văn minh như Hoa Kỳ, không những
cử chỉ bạo động của dân biểu Gianforte là một hành vi đáng trách, mà việc một tổng
thống công khai cổ võ cho bạo động lại càng đáng lên án hơn. Khi được hỏi về
thái độ của Tổng thống Trump, một nữ phát ngôn viên của Thủ tướng Anh Theresa
May đã trả lời: “Bất cứ một hành vi bạo động hay đe dọa nào chống lại một ký giả
cũng đều là điều không thể chấp nhận được”. Tại Hoa Kỳ, nhiều ký giả đã đồng loạt
lên tiếng về thái độ của Tổng thống Trump. Thông tín viên của báo the New York
Times đã viết trên Twitter: “Gianforte là người có hành vi phạm pháp. Ông đã nhận
tội. Nhưng tổng thống lại đi ca ngợi một kẻ phạm pháp về hành động phạm pháp
này”. Ký giả Sheryk Gay Stolberg, cũng của báo The New York Times, viết rằng “đây
là lần đầu tiên một tổng thống đã công khai và trực tiếp ca ngợi một hành vi bạo
động chống lại một ký giả trên đất Mỹ”.
Nhận định của chủ bút báo the Guardian, bà Katharine
Viner, lại càng đáng suy nghĩ hơn: “Vào giữa lúc các ký giả trên khắp thế giới
đang bị sách nhiểu, bắt giữ và ngay cả bị giết chết, đây là những lời (lời khen ngợi của tổng thống Trump dành
cho dân biểu Gianforte) vô cùng thiếu trách nhiệm. Đó là một cái tát vào mặt tự
do báo chí và gởi đi một thông điệp nguy hiểm cho các nhà chuyên chế và độc tài
trên khắp thế giới”.
Nhận định trên đây của chủ bút báo the Guardian không thể
không gợi lại cái chết bi thảm của ký giả Jamal Khashoggi, người bị sát hại
ngay trong tòa lãnh sự của Vương quốc Á rập Saudi tại Thổ Nhĩ Kỳ. Cái chết của
ký giả Khashoggi đã phơi bày một bộ mặt đáng sợ của thế giới ngày nay: nhiều
chính phủ chuyên chế và chế độ độc tài hiện đang công khai sử dụng bạo lực để bịt
miệng, đàn áp và ngay cả tiêu diệt bất cứ một tiếng nói bất đồng chính kiến
nào. Đáng sợ hơn chính là sự im lặng đồng lõa của chính các chế độ tự nhận là
dân chủ trước cách hành xử bạo lực này.
Thật ra, bạo lực, nhứt là bạo lực của những kẻ có quyền, lúc
nào cũng là biểu hiện của sự yếu nhược và sợ hãi. Chính vì sợ hãi mà con người có hành vi bạo lực,
trong lời nói cũng như hành động, đối với người khác.
Triết lý nhân sinh của Lão Tử (600-500 trước Công nguyên)
gợi lên cho tôi một sức mạnh khác. Theo truyền thuyết, lúc nhỏ Lão Tử thụ giáo
với một lão sư tên là Thường Tung. Khi Lão Tử trưởng thành thì cũng là lúc vị
lão sư đã già yếu. Một hôm, biết thày mình không còn sống bao lâu nữa, Lão Tử
đã tiến đến bên cạnh giường của thày và hỏi: “Xem ra thày khó qua khỏi. Dám bạch
thày còn điều gì để dạy bảo con không?”
Lão sư Thường Tung không nói gì mà chỉ há miệng ra cho
Lão Tử xem, rồi lấy tay chỉ vào miệng và thều thào hỏi: “Lưỡi của ta còn
không?” Không hiểu thày mình muốn nói gì, Lão Tử hỏi lại: “Phải chăng thày đã bệnh
đến mức lẫn rồi sao? Sao thày lại hỏi như thế? Không còn lưỡi thì sao thày có
thể nói chuyện được?”
Vị lão sư lại hỏi tiếp: “Thế răng của ta còn không?” Vẫn
chưa hiểu được ý của thày, Lão Tử trả lời: “Thưa thày, răng của thày rụng hết rồi
ạ”
Lão sư Thường Tung hỏi thêm: “Thế con có biết vì sao ta
không còn răng không?” Ngẫm nghĩ một giây lát Lão Tử thưa: “Thưa thày, bởi vì
lưỡi của thày mềm nên còn. Răng rụng bởi vì răng cứng, có phải vậy không thưa
thày?
Lão sư khẽ gật đầu rồi nhắm mắt.
Về sau, nhớ lại bài học của lão sư Thương Tung, Lão Tử đã
viết trong “Đạo Đức Kinh” rằng “nhu thắng cương, nhược thắng cường”. Ông lấy sức
mạnh của nước để minh họa: không gì mềm
yếu hơn nước, vậy mà nước lại có thể công phá được mọi thứ cứng rắn nhứt.
Ngày nay, sau cuộc tranh đấu bất bạo động của Mahatma
Gandhi tại Ấn Độ và rất nhiều cuộc cách mạng bất bạo động tại nhiều nơi trên thế
giới, sức mạnh mềm thường được nhắc tới. Hiểu một cách đơn giản, sức mạnh mềm
chính là sức mạnh của bất bạo động, của tình thương, của lòng vị tha, của sự tử
tế, của tinh thần khoan nhượng, của cảm thông, của tha thứ...Tương lai của thế
giới tùy thuộc vào sức mạnh mềm ấy và dĩ nhiên sự trưởng thành thực sự và định
mệnh của mỗi một con người cũng tùy thuộc vào sức mạnh mềm ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét