Chu Thập
02/11/18
Cách đây vài năm, lần đầu tiên về thăm Vũng Tàu, tôi có
ghé vào Lăng Ông Nam Hải. Vũng Tàu vẫn tiếp tục được xem là một trong
những thành phố du lịch nổi tiếng của Việt Nam và Lăng Ông Nam Hải là một điểm
thu hút nhiều du khách.
Lăng Ông Nam Hải nằm trên đường Hoàng Hoa Thám, trong một
khuôn viên rộng và thoáng mát gồm có đền Thắng Tam và miếu bà Ngũ Hành. Cá Ông mà bộ xương vẫn còn được giữ nguyên vẹn trong lăng được người
dân địa phương tôn sùng và biết ơn như một vị thần của biển cả. Thật ra, không
riêng ở Vũng Tàu mà hầu như bất cứ dân làng chài nào ở Việt Nam cũng dành cho
Cá Ông một sự tôn sùng đặc biệt.
Theo truyền thuyết, vào Thế kỷ 19, một con Cá Ông lớn
trôi dạt vào Bãi Sau. Kích thước của đầu cá rất lớn. Người dân phải cần đến
tre, gỗ rào đầu cá lại cho đến khi thịt cá rữa ra mới tháo từng khớp xương ra
và mang vào đền thờ tại một miếu ở Bãi Trước. Hầu như ngư ông Việt Nam nào cũng
đều có kinh nghiệm hay tin tưởng rằng cá ông là loài cá linh thiêng, thường hay
giúp đỡ con người mỗi khi sóng to gió lớn nổi lên; cá ông cứu con người thoát
khỏi nhiều nguy hiểm nên khi cá chết dạt vào bờ, người đầu tiên trông thấy có
nhiệm vụ phải để tang và lo toan chôn cất xác cá ông. Sau nhiều năm người dân
góp tiền xây dựng một Lăng Cá Ông để tôn thờ hay tưởng nhớ loài cá linh thiêng
này (x. https://dulichdongque.com/lang-ca-ong-tai-vung-tau).
Người Tây Phương không tôn thờ cá ông, nhưng cũng công nhận
đức tính “vị tha” nơi loài cá này. Thật ra, cá ông cũng có nhiều loại: có loại
dữ (orcas hay killer whale) và cũng có loại hiền (humpback whale). Robert
Pitman, một nhà sinh thái học hải dương làm việc tại Cơ quan Hải dương học và
Khí quyển của Hoa Kỳ, đã kể lại một cuộc gặp gỡ kỳ diệu với loài cá ông “hiền”
tại Nam Bắc Cực hồi năm 2009. Theo mô tả của nhà khoa học này, một hôm có một
bày cá ông dữ đã dồn sức tấn công một con hải cẩu. Trong cơn sợ hãi, con hải cẩu
bơi đến gần hai con cá ông hiền để “cầu cứu”. Một trong 2 con cá ong hiền đã sải
dài cái đuôi của nó ra và kéo con vật đang bị tấn công về phía mình. Con hải cẩu
nặng đến 400 ký đã tìm được một chỗ trú ẩn an toàn dưới lòng ngực của “vị ân
nhân”. Khi đám cá ông dữ tiến đến tấn công, con cá ông hiền, với một cử chỉ
thân ái, đã tìm cách ném “nạn nhân” ra khỏi nước để thoát khỏi vòng vây của mấy
con cá ông dữ.
Theo dõi “biến cố”, ông Pitman cho rằng “những con cá ông
hiền đã làm một điều mà chúng ta không thể giải thích được”. Ông đã hỏi ý kiến
của các nhà nghiên cứu đã từng theo dõi động thái của loài cá này. Tất cả đều
có cùng một kinh nghiệm. Trong 62 năm ròng rã, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận
được tất cả 115 cuộc đối đầu giữa cá ông hiền và cá ông dữ như thế.
Trong một bài viết được đăng trên báo Marine Mammal
Science (Khoa học về loài động vất có vú dưới biển) xuất bản tại Hoa Kỳ hồi năm
2016, ông Pitman khẳng định rằng thái độ “vị tha” của loài cá ông hiền được ghi
nhận không chỉ tại một vài nơi như Nam hay Bắc Cực, mà là một sự kiện phổ biến tại
khắp nơi trên thế giới.
Dĩ nhiên, ghi nhận sự kiện là một chuyện và hiểu được sự
kiện lại là một chuyện khác. Câu hỏi mà các nhà khoa học thường nêu lên là: tại
sao loài cá ông hiền luôn ngăn cản không để cho loài cá ông dữ tấn công những
con mồi khác? Trả lời cho câu hỏi này, các nhà khoa học cho rằng có thể loài cá
ông dữ tấn công những con cá ông hiền nhỏ cho nên những con cá ông hiền lớn phải
có phản ứng để tự vệ. Đây là chuyện thường xảy ra trong thế giới loài vật. Cũng
có thể, theo giải thích của các nhà khoa học, lúc còn nhỏ đã từng bị chấn
thương do bị loài cá ông dữ tấn công cho nên khi lớn lên cá ông hiền thường đáp
trả lại bằng thế công.
Một con cá ông hiền trưởng thành có thể cân nặng từ 30 đến
40 tấn, trong khi loài cá ông dữ thường chỉ nặng tối đa là 6 tấn. Do đó, trước
sức tấn công hay đánh trả của cá ông hiền, cá ông dữ thường bỏ chạy và như vậy,
nhờ sự bảo vệ của cá ông hiền, phần lớn các loài động vật bị loài cá ông dữ tấn
công, đều được an toàn.
Câu hỏi mà các nhà khoa học thường nêu lên là: phải chăng
loài cá ông hiền cũng có lòng vị tha và biết cảm thông như chúng ta vẫn hiểu về
từ này theo giáo lý Nhà Phật? Ông Pitman đã trả lời: “Khi một con người bảo vệ
một cá nhân đang gặp nguy hiểm vì một chủng loại khác, chúng ta gọi hành động
này là cảm thông. Còn nếu một con cá ông hiền làm như thế thì chúng ta gọi là bản
năng. Tuy nhiên đôi khi sự phân biệt không rõ ràng chút nào”.
Ngày nay các nhà khoa học nhìn nhận có sự khác biệt “văn
hóa” giữa cá ông, loài linh trưởng, voi và một chủng loại khác. Ngày càng có
nhiều cuộc nghiên cứu về cảm xúc của loài vật. Các nhà khoa học cố gắng giải
thích những khác biệt về cảm thông và vị tha giữa loài vật và loài người.
Loài khỉ, cũng giống như trẻ con còn quá nhỏ để hiểu được
thế nào là lịch sự, lại làm được những cử chỉ “vị tha” đối với đồng loại, ngay
cả phải ngưng chơi hoặc phải vượt qua một trở ngại nào đó để làm cử chỉ ấy.
Không riêng đối với đồng loại, khỉ cũng biết giúp đỡ những người mà chúng quen
biết và cả những người lạ mặt.
Các nhà khoa học kết luận rằng vị tha và cảm thông là một
“ đức tính” bẩm sinh nơi súc vật cũng như loài người. Giáo sư tâm lý học tại Đại
học Berkeley, California, Dacher Keltner gọi đây là một “bản năng cảm thông” (compassionate
instinct).
Theo ông Pitman, sở dĩ loài cá ông hiền được phú bẩm cho
bản năng cảm thông hay vị tha ấy là để
chúng bảo tồn giống nòi. Như vậy nơi loài cá ông hiền cũng như loài người, bất
cứ một cử chỉ vị tha nào cuối cùng cũng vẫn là vì mình và giống nòi của mình.
Steve Cole, một nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Los Angeles, California cho
rằng, xét về sinh lý học, không thể có một “sự vị tha thật sự”, bởi vì “giúp đỡ
người khác cũng chính là giúp đỡ chính mình” (x.Elin Kelsey from Hakai
Magazine, The Ocean’sUnexpectedHeroes,https://www.zinio.com/reader/readsvg/394159/58).
Marcus Tullius Cecero là một diễn giả La Mã nổi tiếng sống
vào Thế kỷ thứ Nhứt trước Công nguyên. Trong một bài biện hộ, ông có nhắc tới một
quan tòa thanh liêm và khôn ngoan là ông Lucius Cassius. Mỗi khi xét xử, ông
này thường nêu lên câu hỏi: “Ai là người được lợi ?” (Cui bono). Cụm từ La tinh
này đã trở thành một thành ngữ quen thuộc trong việc xét xử: cần phải xét động
lực nào thúc đẩy một can phạm có hành vi phạm pháp?
Thành ngữ này cũng được áp dụng vào việc tìm hiểu động lực
thúc đẩy con người sống vị tha và làm việc thiện. Thật vậy có rất nhiều động lực
thúc đẩy còn người làm việc thiện. Vì thương người, có biết bao nhiêu người
chia sẻ tất cả những gì mình có và ngay cả hy sinh mạng sống của mình. Nhưng
cũng không thiếu những người làm việc thiện vì “lợi danh”: nếu không vì một
chút danh thơm tiếng tốt thì cũng vì một món lợi trước mắt. Ai đó đã có lý để nói đến các thứ “kinh doanh từ thiện”. Việc
thiện đã trở thành một thứ kinh doanh béo bở!
“Tuyệt đối vô vị lợi” trong vị tha là điều xem ra không
thể có được. Cách này hay cách khác, con người luôn nghĩ đến bản thân trước
tiên. Làm sao một tín hữu Kitô làm việc thiện,
thực thi bác ái mà không nghĩ đến phần thưởng trên “nước Thiên Đàng” hoặc sợ bị
trầm luân trong hỏa ngục hoặc để đền bù cho một sự bất công nào đó mình đã làm
cho người khác? Có Phật tử nào cúng dường, bố thí...mà không mong được siêu
thoát trong kiếp sau?
Thương người như thể thương thân. Thương người là thương
chính mình. Một hành động vị tha mang lại lợi ích cho người khác đã đành, mà
cũng làm lợi cho chính bản thân.
Ngay cả một hành động vị tha hay vì công ích xem ra chẳng
mang lại một lợi ích nào cho người khác hay cho cộng đồng, nhưng không thể
không “sinh lợi” cho bản thân. Hãy lấy thử một thí dụ. Ý thức về việc bảo vệ
môi sinh, tôi cố gắng không vứt rác bừa bãi, tôi thu nhặt các thứ đồ nhựa để
tái sinh, tôi đi xe đạp để góp phần giảm bớt khí thải v.v...Tôi tin rằng tôi
làm như thế là để góp phần bảo vệ môi sinh, giúp cho trái đất trở thành một nơi
đáng sống cho mọi người. Nhưng thử hỏi, một giọt nước trong đại dương của tôi
có ảnh hưởng một ly nào đến 7.6 tỷ con người đang có mặt trên mặt đất này
không? Có thể đó chỉ là một thứ công dã tràng. Nhưng nhìn sâu vào nội tâm, tôi
nhận thấy rằng mỗi khi tôi làm bất cứ một việc gì vì người khác hay vì công
ích, dù đó chỉ là một việc làm vô danh không tạo được một ảnh hưởng nào và nhứt
là cũng chẳng được ai ghi nhận, tôi luôn cảm thấy vui. Người “hưởng lợi” từ một
hành động vị tha của tôi trước tiên là chính tôi.
Ý tưởng này giúp tôi nuôi dưỡng niềm lạc quan và vui sống,
nhứt là trong một thế giới đầy nhiễu nhương và bất ổn như hiện nay. Tựu trung vấn đề của thế giới lúc
nào cũng là vấn đề đạo đức. Thế giới lúc nào cũng bị lôi kéo và xâu xé giữa 2 đối
cực: một bên là ích kỷ và hận thù, một bên là vị tha và tình thương. Cuộc chiến
giữa 2 đối cực thường được minh họa trên màn ảnh truyền hình bằng hình ảnh của
một thiên thần nhỏ và một tên quỷ dữ. Cả hai lúc nào cũng đang rỉ tai thôi thúc
con người. Thiên thần nhỏ nhắc nhở một điều thiện cần phải làm như: “Hãy dành
chiếc bánh ngọt cuối cùng này cho một người khác đang cần hơn”. Trong khi đó
tên quỷ lại xúi giục: “Hãy ăn luôn chiếc bánh ngọt cuối cùng” (x. https://www.psychologytoday.com/us/blog/prefrontal-nudity/201307/the-origin-altruism).
Chủ nghĩa dân tộc đang hồi sinh khắp nơi hiện nay, một
cách nào đó, cho thấy sự thắng thế của tên quỷ dữ. Nó bảo: dân tộc và quốc gia
của mi là trên hết và trước hết, đừng nghĩ đến các dân tộc khác! Chiếc bánh ngọt
thừa thãi cuối cùng lẽ ra phải được chia sẻ cho những người cần ăn hơn vẫn bị
giữ khư khư trong tay.
Thật ra cuộc đối đầu giữa vị thiên thần nhỏ và tên quỷ dữ
lúc nào lại chẳng diễn ra trong chính bản thân tôi. Tôi luôn ý thức về điều đó:
nghe theo lời tên quỷ dữ để khư khư giữ lấy chiếc bánh ngọt cuối cùng cho mình,
nhân cách của tôi sẽ thui chột. Trái lại nếu tôi nghe lời vị thiên thần nhỏ để
chia sẻ chiếc bánh ấy cho một người khác đang cần được ăn hơn, tôi không chỉ
xoa dịu nỗi đau của một người khác. Chính tôi mới thực sự là người hưởng lợi: Khi
nhìn một người thưởng thức ngon lành cái bánh mà tôi đã không còn bụng để ăn,
chắc chắn tôi cảm thấy vui. Chỉ nhờ một chiếc bánh nhỏ mà tôi “mua” được một niềm
vui. Và từ đó tôi tiến thêm một bước trong sự trưởng thành nhân cách. Vị tha
luôn mang lại cho tôi niềm lạc quan và vui sống!
Là một người tỵ nạn, tôi đã nhờ có “chiếc bánh nhỏ” của
những ân nhân và chính phủ ở quốc gia định cư để bắt đầu cuộc đời mới. Tôi sẽ
ra sao nếu không có quần áo, dụng cụ trong nhà...của các hội từ thiện. Tôi sẽ
ra sao nếu không có chút tiền trợ cấp và các khóa học cho những người mới đến.
Tôi sẽ ra sao nếu không có những người thiện nguyện hướng dẫn trong các vấn đề
liên quan đến giấy tờ, luật pháp. Và còn biết bao nhiêu thứ khác...
Một chiếc bánh nhỏ không làm cho một người no đủ nhưng chắc
chắn một ngày nào đó khi chính họ cũng có một chiếc bánh dư, họ cũng sẽ chia
cho người khác như chính mình đã từng được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét