Thứ Sáu, 17 tháng 8, 2018

Tôi không có kẻ thù!



Chu Thập
10/08/18
Trong 2 tuần lễ thăm viếng người thân và bạn bè ở Bắc Mỹ, tôi thường được hỏi: thích sống ở đâu nhứt?
Tại Quận Cam, nhà cô em gái tôi nằm ngay phía sau chợ ABC, một trong rất nhiều chợ bán thực phẩm Á Châu lớn nhứt tại Tiểu Sài Gòn. Từ nhà đi bộ ra chợ chỉ mất 3 phút. Đi thêm vài phút nữa là tới khu Phúc Lộc Thọ. Ở đâu cũng thấy giống Sài Gòn. Chợ búa ở đâu cũng có. Trái cây nhiệt đới từ Mễ Tây Cơ do chính người Việt trồng thì ê hề, mà giá lại rẻ mạt. Một trái mít ráo to tổ chảng giá không đến 10 Mỹ kim!...Thích sống ở Mỹ quá đi chớ!
Sang Gia Nã Đại, tôi cũng được người thân và bạn bè đặt cùng một câu hỏi: thích sống ở đâu nhứt! Cuộc sống của người Việt tỵ nạn ở Gia Nã Đại xem ra không đến nỗi ồn ào náo nhiệt như ở Mỹ. Cảnh trí ở Gia Nã Đại xem ra yên tĩnh và hiền hòa. Giá sinh hoạt ở Gia Nã Đại cũng không cao như ở Úc. Tuy nhiên, khi được hỏi: thích sống ở đâu nhứt, lúc nào tôi cũng trả lời: ở đâu quen đó! Tôi đã chọn Úc Đại Lợi làm quê hương thứ hai. Tôi đã quen với cuộc sống ở đây. Đây là “ao nhà” của tôi. Tôi thích sống ở đây hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới!
Lẽ ra có một câu hỏi khác mà người thân và bạn bè của tôi ở Bắc Mỹ nên đặt ra cho tôi là: thích đi du lịch ở đâu nhứt?  Tôi là người thích ngao du. Trước khi dừng chân ở Úc, tôi cũng đã lang thang qua rất nhiều nước, nhứt là Âu Châu. Tôi cũng đã sống và làm việc bên Phi Luật Tân đúng 15 năm. Tôi chưa đi hết các nước Á châu. Nhưng nếu phải chọn một địa điểm du lịch để trở lại, tôi luôn luôn nghĩ đến Thái Lan trước tiên.
Nói đến Thái Lan, hầu như người Úc nào cũng nghĩ đến những bãi biển ở Phuket hoặc Chiang Mai. Nhiều người Việt có lẽ nghĩ đến đủ loại trái cây nhiệt đới chỉ có ở Thái Lan. Riêng tôi thích đến Thái Lan để học cách con người cư xử tử tế với nhau. Có người xem du lịch như một sự trốn chạy (escape!) khỏi cuộc sống thường ngày. Có người đi du lịch để nghỉ ngơi, thư giãn, để thưởng lãm, để hưởng thụ những thú vui không có ở quê nhà. Cũng có người nhấn mạnh đến khía cạnh “sinh thái” của du lịch. Riêng tôi lại nghĩ đến những bài học “nhân sinh” mà mình có thể học được từ cách cư xử của người khác. Thái Lan là một trong những ngôi trường ấy.
Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh của những người Thái chơn chất, hiền lành, thân thiện, lương thiện, hiếu khách, tử tế mà tôi đã tiếp xúc tại những vùng quê. Ở xứ Phật này, dường như ở đâu tôi cũng thấy những phật sống. Giáo lý Phật giáo ở Thái Lan không chỉ là kinh kệ để tụng niệm hay Phật Pháp chỉ để tuyên xưng hay bênh vực, mà là để sống. Dĩ nhiên không phải sống như các tu sĩ trong chùa, mà như những con người sống giữa đời thường luôn biết lấy nhân nghĩa để đối xử với nhau.
Lần đầu tiên đi du lịch ở Thái lan cách đây bốn năm, tôi muốn đi tìm câu trả lời cho những chuyện hải tặc thời vượt biên. Nhưng tôi không tìm ra một vết tích nào trên những khuôn mặt hiền hòa của những người dân tại những làng chài lưới mà tôi đã được chào đón và lưu lại trong thời gian ở đây. Sự hiền hòa tử tế của những người tôi đã tiếp xúc làm cho tôi hướng sự tìm hiểu đất nước Thái Lan qua một hướng mới: tử tế và biết ơn.
Mới đây, với cuộc giải cứu đội banh thiếu niên bị mắc kẹt trong hang động Luang Tham, tỉnh Chiang Rai, Bắc Thái Lan, tôi lại càng nhận ra ảnh hưởng sâu đậm của giáo lý Phật Giáo đối với cuộc sống của người dân Thái hơn. Lâu nay, tôi chỉ hiểu lơ mơ rằng vào chùa tu là để tập sống buông bỏ, vô chấp. Nay qua các thiếu niên được giải cứu khỏi hang động, những người trở về từ cõi chết nhờ bàn tay cứu nạn của cả thế giới, tôi mới hiểu thêm rằng vào chùa tu trước hết là để tập sống và thể hiện lòng biết ơn và xuống núi để nhập thế thiết yếu cũng là để bày tỏ lòng biết ơn.
Tôi biết rằng sau khi được giải cứu, trừ một em là tín đồ Kitô Giáo, 10 em khác trong đội banh thiếu niên đều xuống tóc quy y. Trong một đất nước mà đại đa số dân chúng theo Phật Giáo, xuống tóc quy y, ngắn hay dài hạn, là một cử chỉ bày tỏ lòng biết ơn. Nay sau một thời gian xuất gia, các thiếu niên này đã trở lại với cuộc sống bình thường. Trước khi rời bỏ cổng chùa, các em đã tham dự một nghi thức rất trang trọng qua đó một lần nữa, các em đã bày tỏ lòng biết ơn đối với thế giới. Vào chùa với lòng biết ơn và vào đời cũng với lòng biết ơn: phải chăng đó không là tâm tình nền tảng nhứt của người Phật Tử chân chính? Cứ mỗi lần nghĩ đến Thái Lan, hình ảnh của những tì kheo mỗi buổi sáng lặng lẽ đi khất thực, gương mặt bình thản toát lên niềm an bình sâu xa...luôn hiện lên trong tâm trí tôi. Họ luôn nhắc nhở tôi về lòng biết ơn đối với “thế giới”, với cuộc sống, với mọi người. Biết ơn là phải, bởi vì trong cuộc sống này có bất cứ điều gì tôi có hay làm ra, mà không là quà tặng nhưng không của thế giới này. Thái Lan đã dạy tôi điều đó. Tôi thích trở lại Thái Lan để trau dồi tâm tình biết ơn ấy.
Thật ra, đâu chỉ từ cổng chùa tôi mới học được bài học về lòng biết ơn. Các chuyên gia tâm lý cũng không ngừng nhắc nhở tôi về tầm quan trọng của lòng biết ơn trong cuộc sống con người. Biết ơn là một cử chỉ và là một cách sống cho thấy nhiều lợi ích về đủ mọi khía cạnh trong cuộc sống như sức khỏe, hạnh phúc, sự thỏa mãn với cuộc sống và cách thế con người quan hệ với người khác. Lòng biết ơn giúp cho con người biết tập trung vào hiện tại và trân quý những gì mình đang có hơn là mải mê chạy theo những ảo ảnh. Khi bày tỏ lòng biết ơn, tâm trí con người cũng sẽ hướng đến những điều tích cực trong cuộc sống để bù đắp cho khuynh hướng tự nhiên của đầu óc lúc nào cũng chỉ nghĩ đến những mối đe dọa, những nỗi lo âu và những khía cạnh tiêu cực của cuộc sống. Lòng biết ơn tạo ra những cảm xúc tích cực như vui tươi, phấn khởi, yêu thương và hài lòng. Lòng biết ơn có thể vực dậy cả một cuộc sống tưởng đã chìm sâu trong hố thẳm của thất vọng. Tôi đọc được đâu đó tâm sự của Nick Vujicic, một người Úc sinh ra không có tay chân, nhưng đã chiến đấu cho tới cùng để thành danh. Ông chia sẻ: “Người ta thường hỏi làm thế nào để tôi có thể sống hạnh phúc khi tôi chẳng có tay mà cũng chẳng có chân. Câu trả lời nhanh chóng của tôi là: tôi không có chọn lựa! Tôi có thể tức giận vì không có tay chân hoặc tôi có thể biết ơn vì mình có một mục đích. Tôi đã chọn lòng biết ơn”.  Nói cho cùng, lòng biết ơn mang lại sự thanh thản và an bình cho con người. Người biết ơn không có kẻ thù. Họ không thù hận.
Tôi nghĩ đến nhà văn Trung Hoa Lưu Hiểu Ba (1955-2017), khôi nguyên Giải Nobel Hòa Bình năm 2010. Tôi tin rằng cũng như hầu hết những con người yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới và hơn ai hết, ông là người luôn sống tâm tình biết ơn, bởi vì dù có bị đàn áp cho đến chết, ông vẫn một mực tuyên bố mình không có kẻ thù và không nuôi dưỡng thù hận trong lòng. Nhân dịp tưởng niệm đúng một năm ngày ông qua đời, hôm 13 tháng Bảy 2018 vừa qua, một nữ điêu khắc gia người Đài Loan là bà Aihua Cheng đã cho trưng bày tại một công viên ở Đài Bắc tác phẩm bằng đồng của bà. Tượng của nhà văn Liêu Hiểu Ba được đặt bên cạnh một chiếc ghế trống để nhắc lại sự kiện ông đã không được nhà cầm quyền Trung Cộng cho phép đến Oslo, Na Uy để nhận Giải Nobel Hòa Bình. Nhưng cùng với một cánh hoa hồng, nghệ sĩ Aihua Cheng đã cho khắc lên dòng chữ “Tôi không có kẻ thù” được trích dẫn từ bài diễn văn nhận giải của ông, được nữ diễn viên và đạo diễn nổi tiếng của Na Uy là bà Liv Ullmann đọc tại buổi lễ trao giải ngày 10 tháng Mười Hai năm 2010.
Trong bài diễn văn, nhà văn Lưu Hiểu Ba kể lại hành trình và cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ của ông tại Trung Cộng, từ lúc ông bước chân vào đại học, ra trường, dạy học trong nước cũng như được thỉnh giảng ở nước ngoài cho đến lúc bị cấm viết và bị giam tù. Trong một đoạn, ông viết: “Tôi vẫn muốn nói với chế độ này (chế độ cộng sản Trung Cộng), tức chế độ đang tước đoạt tự do của tôi, rằng tôi vẫn kiên trì trong niềm xác tín mà tôi đã bày tỏ trong “Tuyên ngôn Tuyệt thực Lần thứ hai” cách đây 20 năm: tôi không có kẻ thù và tôi không hận thù. Không có một viên công an nào đã theo dõi, bắt giữ và thẩm vấn tôi, không có một công tố viên nào đã buộc tội tôi và cũng không có một thẩm phán nào đã xét xử tôi là kẻ thù của tôi cả....Hận thù có thể làm thối rữa trí khôn và lương tâm con người. Não trạng hận thù sẽ đầu độc tinh thần của một dân tộc, khích động những cuộc chiến đấu dã man và gây chết chóc, tiêu hủy óc khoan nhượng và tình người của một xã hội cũng như ngăn cản một dân tộc tiến tới tự do và dân chủ. Chính vì vậy mà tôi hy vọng có thể vượt qua những gian khổ của mình...để lấy thiện chí cao độ nhứt đối lại sự thù nghịch của chế độ và lấy tình thương để đẩy lui hận thù”.
Nhà văn Lưu Hiểu Ba đã chết rũ tù. Trung Cộng vẫn không bao giờ từ bỏ chế độ độc tài đảng trị. Cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ của nhà văn Lưu Hiểu Ba xem như thất bại. Nhưng chiến thắng mà ông đã đạt được lớn lao hơn nhiều. Đó là chiến thắng trên hận thù trong chính bản thân của ông.
Có nhiều thứ chiến tranh. Nhưng chiến tranh nào, ngay cả chiến tranh thương mại, cũng đều  gây ra đau thương tang tóc và mất mát cho con người, dù ở bên nào. Chỉ có một cuộc chiến duy nhứt đáng để chiến đấu và sống chết cho đó là cuộc chiến chống lại sự thù hận trong chính bản thân. Nhà văn Lưu Hiểu Ba đã chứng tỏ điều đó. Ông mới thực sự là người chiến thắng. Ông đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh cam go nhứt trong cuộc sống của một con người.
Khi chiêm ngắm hình ảnh của những cầu thủ thiếu niên Thái Lan vào chùa xuống tóc quy y để bày tỏ lòng biết ơn với thế giới và sau đó từ giã cổng chùa cũng để một lần nữa nói lên hai tiếng cám ơn với thế giới, tôi không thể không nghe văng vẳng bài ca khải hoàn của nhà văn Lưu Hiểu Ba “Tôi không có kẻ thù và tôi không thù hận”.
Tôi tin rằng lòng biết ơn luôn có sức dập tan ngọn lửa thù hận trong tôi. Biết ơn với chính thân xác tôi, một thân xác đã bị bóc lột, đối xử tệ bạc và đày đọa do cuộc sống bừa bãi thiếu kỷ luật, thiếu trách nhiệm và ích kỷ của tôi. Biết ơn với thiên nhiên, với môi trường sống, với không khí tôi hít thở từng giây từng phút, với nguồn nước uống tôi có mỗi ngày, với biết bao nhiêu cảnh trí mang lại cho tôi an bình và niềm vui sống. Và trên hết, biết ơn với cả thế giới, với những người xung quanh tôi, những người tôi gặp gỡ mỗi ngày, những người tôi chưa từng quen biết...Có ai mà không cách này cách khác là ân nhân và thày dạy của tôi. Xin được mãi mãi “cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy ta có thêm một ngày mới để yêu thương” (Kahill Gibran), nhờ đó ta mới được bình an và hạnh phúc.








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét