24/08/18
Khí hậu thay đổi là một hiện tượng khó chối cãi. Bão lụt,
hạn hán, cháy rừng và những đợt nóng kéo dài tại nhiều nơi trên thế giới đã tạo
ra nhiều thiệt hại về đủ mọi phương diện cho con người. Trong số những nạn nhân
phải gánh chịu nhiều thiệt hại nhất, nữ giới là số đông.
Một cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng vào khoảng năm 2050, số
người tỵ nạn vì những hậu quả của khí hậu thay đổi trên khắp thế giới có thể
lên đến 150 triệu người, trong số này 80 phần trăm sẽ là phụ nữ và trẻ con. Phụ
nữ ở những vùng nông thôn của Nam bán cầu như Phi Châu, Á Châu, Châu Mỹ La Tinh
và các vùng Á Rập sẽ là những người bị thiệt thòi nhiều nhất vì hạn hán, đói
kém và thời tiết khắc nghiệt.
Theo một bản phúc trình của Liên Hiệp Quốc, có đến 80 phần
trăm những người phải di tản vì khí hậu thay đổi là phụ nữ. Vì đóng vai trò “nội
trợ” và ngay cả cần câu cơm của gia đình, người phụ nữ dễ bị tổn thương hơn đàn
ông khi xảy ra lụt lội và hạn hán. Tại rất nhiều nước nghèo, phụ nữ phải gánh lấy
trách nhiệm sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái, nhất là trong những cộng đồng vẫn
còn lệ thuộc vào nông nghiệp. Tại những nước lệ thuộc vào nông nghiệp, 80 phần
trăm lực lượng lao động là phụ nữ. Trong
những nền kinh tế còn lệ thuộc vào nông nghiệp và thời tiết, người phụ nữ lại thường
ít được hưởng những cơ may và phương tiện sống như đàn ông. Họ ít được học
hành, ít được hưởng chăm sóc y tế, ít được hưởng các tài nguyên, vật lực và tiền
bạc cũng như ngay cả các quyền căn bản của con người. Thị trường lao động thường
cũng không được mở rộng cho phụ nữ. Tình trạng bất bình đẳng nam nữ tại nhiều
nước cũng khiến phụ nữ không có được tiếng nói trong xã hội và ngay cả những
chính sách có liên quan đến họ. Chính vì bị đẩy ra bên lề xã hội mà người phụ nữ
gặp nhiều khó khăn hơn trong việc đối phó với những thiên tai do khí hậu thay đổi
tạo ra.
Khi dịch bệnh Zika xảy ra tại một số nước Châu Mỹ La Tinh
chẳng hạn, phụ nữ và trẻ em là những người phải hứng chịu nhiều hơn ai hết những
tác hại của khí hậu thay đổi. Nói chung, tại những nước nghèo, khi xảy ra dịch
bệnh hay thiên tai, đàn ông vẫn luôn được ưu tiên tiếp cứu hoặc được chăm sóc kỹ hơn cũng như được
bảo đảm về lương thực và tài chính hơn. Đây là trường hợp điển hình tại
Bangladesh vào năm 1991 khi quốc gia này phải trải qua một trận bão làm cho
140.000 người bị thiệt mạng: có đến 90 phần trăm nạn nhân là phụ nữ!
Thỏa ước Paris 2015 về việc giảm bớt khí thải để đối phó
với hiện tượng trái đất hâm nóng và khí hậu thay đồi, được hầu như mọi quốc gia
trên thế giới ký kết, đã nhìn nhận rằng phụ nữ là những người phải gánh chịu
nhiểu hậu quả nhất của hiện tượng khí hậu thay đổi.
Nhìn qua một số nước nghèo trên thế giới, người ta mới thấy
rõ những hậu quả của hiện tượng khí hậu thay đổi mà nữ giới phải gánh chịu. Chẳng
hạn như tại miền Trung của lục địa Phi Châu, nơi có đến 90 phần trăm Hồ Chad đã
biến mất vì hạn hán, các nhóm dân sống bằng du mục bị đe dọa nhiều nhất. Khi mực
nước hồ ngày càng thấp, nguồn nước ngày càng hiếm, người phụ nữ phải đi bộ rất
xa để kiếm nước. Có trên 60 phần trăm các gia đình tại vùng Hạ Sahara Phi Châu
tùy thuộc vào người phụ nữ để tìm ra nguồn nước, kín nước và mang nước về cho
gia đình. Khí hậu thay đồi, nạn phá rừng và hiện tượng sa mạc hóa khiến cho việc
đi tìm nguồn nước ngày càng trở nên khó khăn hơn. Người phụ nữ lại phải mất nhiều
thì giờ hơn để tìm nước, kín nước và mang nước về cho gia đình.
Hindou Oumarou Ibrahim, người đang điều hợp Hiệp hội Phụ
nữ và Dân Chad, đã giải thích với phóng viên của Đài BBC: “Trong mùa khô, đàn
ông đi xuống phố...bỏ mặc cho đàn bà phải trông nom cộng đồng”. Mùa khô càng
dài thì phụ nữ càng phải làm việc cật lực hơn để nuôi sống và chăm sóc gia đình
mà không được một sự trợ giúp nào. Ông Ibrahim nói: “Phụ nữ là những người dễ bị
tổn thương...Họ phải làm việc quá cực nhọc”.
Nhưng không chỉ phụ nữ tại vùng nông thôn mới gánh chịu
những hậu quả của hiện tượng khí hậu thay đổi. Nhìn chung, trên khắp thế giới,
ngay cả tại những nước giàu có, ở đâu phụ nữ cũng dễ lâm vào cảnh nghèo đói và
ít có cơ hội để vươn lên về mặt kinh tế và xã hội như đàn ông. Mỗi khi thiên
tai xảy ra, hạ tầng cơ sở bị hư hỏng, công ăn việc làm ít hơn và nhà cửa bị hư
hại, tình trạng của người phụ nữ lại càng thê thảm hơn.
Trong đợt nóng tại Âu Châu năm 2003, người ta tính số nạn
nhân nữ giới vẫn cao hơn đàn ông. Năm 2005, khi cơn bão Katrina tàn phá thành
phố New Orleans, Tiểu bang Louisana, Hoa Kỳ, những người phụ nữ gốc Phi Châu là
thành phần phải gánh chịu nhiều thiệt thòi nhất. Bà Jacquelyn Litt, giáo sư về
Giới tính và Phụ nữ học tại Đại học Rutgers cho biết: “Tại New Orleans, trước
khi bão Katrina xảy ra, tỷ lệ nghèo của người Mỹ gốc Phi Châu đã rất cao. Hơn
phân nửa những gia đình nghèo trong thành phố là những gia đình của những bà mẹ
đơn chiếc. Họ nhờ vào các tổ chức độc lập của cộng đồng để sống qua ngày. Cơn
bão Katrina đã làm suy yếu những tổ chức độc lập ấy khiến cho nhiều người phải
di tản. Phụ nữ và trẻ em là những người gặp nhiều rủi ro hơn ai hết”.
Liền sau những thiên tai như thế, các trung tâm tạm cư đã
được thiết lập, nhưng lại không được trang bị đầy đủ để nâng đỡ các phụ nữ. Sân
vận động thể thao Superdome tại thành phố New Orleans vốn có một sức chứa rất lớn.
Nhưng sau cơn bão Katrina, sân vận động này không những không thể chứa hết những
người di tản mà cũng không có đủ những phương tiện vệ sinh cho các phụ nữ.
Không những không được chăm sóc đầy đủ, những người phụ nữ
di tản còn phải đối phó với nạn bạo hành, tấn công tình dục và ngay cả hãm hiếp.
Số phận của người phụ nữ tại những vùng nông thôn của Úc
Đại Lợi cũng không khá hơn. Tình trạng hạn hán lâu dài luôn tạo ra nhiều vấn đề
cho các nông gia và gia đình của họ. Áp lực lại càng đè nặng hơn trên người phụ
nữ khi họ phải đưa vai gánh vác cả gia đình không những về mặt vật chất mà còn
cả về tinh thần và tâm lý nữa.
Khí hậu thay đổi có thể là một hiện tượng tự nhiên, nhưng
lại do con người góp phần làm cho hiện
tượng này thêm nhanh hơn và trầm trọng hơn và khí hậu thay đổi ảnh hưởng ít hay
nhiều đến cuộc sống con người là cũng do những cơ cấu xã hội của con người.
Thiên tai do đó không tác hại đồng đều đến mọi người. Người giàu ít bị thiệt hại
hơn người nghèo và đàn ông cũng ít bị tổn thương hơn đàn bà.
Sau trận sóng thần xảy ra tại Á Châu hồi năm 2004, một bản
phúc trình của Tổ chức Từ thiện Oxfam của Anh Quốc ghi nhận rằng tại ba nước
Sri Lanka, Nam Dương và Ấn Độ, số người đàn ông sống sót cao hơn đàn bà 3.1 phần
trăm. Theo một cuộc nghiên cứu được Trường Kinh tế thuộc Đại học London, Anh Quốc
thực hiện hồi năm 2007, thiên tai lúc nào cũng sát hại nhiều phụ nữ hơn đàn ông.
Trung bình số phụ nữ bị thiệt mạng trong thiên tại cao gặp năm lần đàn ông. Tỷ
lệ này càng cao hơn tại những nơi phụ nữ bị thiệt thòi về kinh tế và xã hội hơn
đàn ông. Nhìn chung, phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi về kinh tế hơn đàn ông và cuối
cùng không có đủ phương tiện để thoát khỏi hoặc thích nghi với những hậu quả của
khí hậu thay đổi. Người ta không biết rõ nguyên nhân tại sao có sự chênh lệch về
tử xuất giữa đàn ông và đàn bà khi xảy ra thiên tai. Tuy nhiên nhìn chung tại
những nước bị sóng thần, đàn ông thường có khả năng bơi lội hơn đàn bà và trong
khi đàn ông tìm cách tẩu thoát thì đàn bà lại phải ở lại để trông nom con cái
và người thân trong gia đình.
Một cuộc nghiên cứu khác được thực hiện trong suốt 25 năm
cũng ghi nhận rằng thiên tai rút ngắn tuổi thọ của đàn bà hơn của đàn ông. Khi
xảy ra thiên tai, số phụ nữ bị thiệt mạng nhiều hơn đàn ông và họ cũng chết trẻ
hơn đàn ông. Ở những nước mà phụ nữ có nhiều sức mạnh hơn về mặt kinh tế và xã
hội, sự khác biệt này được giảm sút rất nhiều.
Một khi đã nhận ra sự thiệt thòi mà người phụ nữ phải
gánh chịu vì thiên tai do khí hậu thay đổi tạo ra, các chính phủ và các tổ chức
hoạt động để đối phó với hiện tượng khí hậu thay đổi, ngày càng quan tâm đến tiếng
nói của người phụ nữ trong việc soạn thảo kế hoạch và chính sách.
Liên Hiệp Quốc đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải quan
tâm đến giới tính trong việc đối phó với khí hậu thay đổi. Tuy nhiên, cho tới
nay số phụ nữ có mặt trong các tổ chức hoạt động để đối phó với khí hậu thay đổi
vẫn chưa tới 30 phần trăm.
Ở cấp địa phương, tỷ lệ này còn thấp hơn. Bà Diana
Liverman, một nhà khoa học chuyên về môi sinh giải thích rằng “phụ nữ thường ít
tham gia vào những quyết định đối phó với khí hậu thay đổi, do đó tiền bạc rốt
cục lại vào túi đàn ông hơn là đàn bà”.
Số phụ nữ chiếm đến nửa dân số thế giới. Lẽ ra họ phải có
một tiếng nói mạnh mẽ hơn trong việc đối phó với khí hậu thay đổi. Hơn nữa,
theo ông Hindou Oumarou Ibrahim, đối phó với
“khí hậu thay đổi không phải là chuyện tranh giành quyền lực, mà là chiến
đấu để sống còn”. Và dĩ nhiên, trong thế giới ngày nay, nhất là tại những nước
nghèo hay đang phát triển, không ai phải tranh đấu để sống còn cho bằng phụ nữ.
Theo một bản phúc trình của Liên Hiệp Quốc về Phụ nữ (UN
Women Watch), mặc dù là nạn nhân phải gánh chịu nhiều thiệt thòi và tổn thương
nhất trong các thiên tai do khí hậu thay đổi tạo ra, phụ nữ lại chính là những
người mang lại niềm hy vọng lớn lao nhất cho nhân loại.
Bản phúc trình của Liên Hiệp Quốc về Phụ nữ nhấn mạnh rằng phụ nữ thường có nhiều hiểu biết và kinh nghiệm
có thể được sử dụng để tìm ra những chiến thuật hữu hiệu hầu thích nghi và đối
phó với khí hậu thay đổi. Hơn nữa vì trách nhiệm của họ trong gia đình và cộng
đồng, người phụ nữ có thể góp phần vào việc đề ra những chiến thuật giúp đối
phó với khí hậu thay đổi.
(theo:
-https://www.bbc.com/news/science-environment-
-https://www.1millionwomen.com.au/blog/why-climate-change-worse-women-and-how-we-can-make-it-better/
-https://www.greenpeace.org.au/blog/female-focus-women-impacted-climate-change/)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét