Chu Thập
17/08/18
Hai cụ Bùi Tín và Tô Hải vừa mới ra đi. Sinh cùng một năm
1927, hai cụ ra đi cùng ngày chỉ cách nhau 15 giờ. Cùng thuộc thế hệ thanh niên
có học thức, cùng được nung nấu bởi những lý tưởng cao đẹp, cùng sôi sục bởi một
lòng yêu nước nồng nàn và cùng bị chế độ cộng sản lừa gạt để biến thành văn nô
bồi bút, cả hai ở cuối đời đều thức tỉnh và đều lên tiếng chống lại chế độ độc
tài cộng sản, tranh đấu cho tự do dân chủ. Phong cách diễn đạt có khác, nhưng
xét cho cùng, cả hai đều có chung một thái độ nội tâm là lòng sám hối, sám hối
đến độ như cụ Tô Hải, tự nhận mình là “một thằng hèn”. Cuộc chiến của hai cụ
không chỉ là một cuộc chiến cho tự do dân chủ và chống lại chế độ độc tài khát
máu, mà thiết yếu là một cuộc chiến giữa lương tri - lẽ phải và độc ác- dối
trá, giữa thiện và ác ngay trong chính bản thân của hai cụ.
Đây cũng chính là cuộc chiến trong chính nội tâm của rất
nhiều nhà văn, nhà thơ dưới chế độ cộng sản. Gần nhứt là trường hợp ông Đoàn Kế
Tường - Đoàn Thạch Hãn, một nhà báo nhà thơ nổi tiếng trong chế độ cộng sản qua đời
năm 2014. Theo “lý lịch trích ngang” của ông Đoàn Kế Tường được tác giả Tưởng
Năng Tiến ghi lại trong bài “Đoàn Kế Tường và Đoàn Thạch Hãn” (x. Người Việt
online 8/8/2018), ông sinh năm 1949 tại Quảng Trị với tên thật là Đoàn Văn
Tùng. Năm 13 tuổi, ông được vào học Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sau đó vào
Trường Bộ Binh Thủ Đức, ra trường chọn Lực lượng Đặc biệt, rồi đào ngũ về quê
Quảng Trị, làm lính địa phương quân và do “cơ duyên tình cờ”, trở thành phóng
viên địa phương của báo Sóng Thần. Gia nhập làng báo, ông sử dụng một số bút hiệu
như Đoàn Kế Tường, Đoàn Thạch Hãn, Đoàn Thiên Lý, Đoàn Nguyễn... Không chỉ viết
văn, nhà báo Đoàn Kế Tường còn làm thơ. Nhiều thi phẩm của ông đã được xuất bản
trước năm 1975.
Cộng sản vào, ông bị bắt năm 1976 vì tham gia tổ chức phục
quốc. Những “tội” khác của ông lại được khui ra như làm báo trước năm 1975, viết
nhiều bài phóng sự chiến trường ca ngợi quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Bị giam tù và sống chung với Đoàn Kế Tường lâu ngày, tác
giả Tưởng Năng Tiến cho biết “Tường thường bị giằng co giữa thiện và ác. Lúc có
thăm nuôi, Tường hào sảng lắm, đem phát cho những “con mồ côi” trong phòng. Tường
bảo “Kệ mẹ hắn, ăn cho đã rồi mai nhịn. Đó là tính THIỆN của Tường”.
Nhưng theo tác giả Tưởng Năng Tiến, “khi giỏ thăm nuôi trống
không, Tường không nhịn được mồm. Lúc đó, tính ÁC lộ ra. Tường không ngần ngại
“xoay sở” bằng nhiều cách để có tí muối, tí đường, tí thuốc lào. Tường còn táo
tợn đến độ “kết bè” với vài bạn tù “ bặm trợn” dọa nạt một số tù gốc Hoa có nhiều
quà thăm nuôi hòng có thêm cái ăn chờ đợt thăm nuôi kế tiếp...”
Ra tù, Tường làm cho báo Công An, với bút hiệu Đoàn Thạch
Hãn. Ông viết nhiều bài ca ngợi chế độ cộng sản và bôi nhọ anh em phục quốc. Dĩ
nhiên, khi ông nằm xuống, báo chí “lề phải” trong nước đã không tiếc lời để ca
tụng ông.
Tác giả Tưởng Năng Tiến, vốn là người độ lượng, đã nhận định
về người bạn tù của mình: “Tường có lần tự phán “mình rất tiếc đã tự bôi đen đời
mình quá nhiều”. Giá Tường được sống trong môi trường khác, tôi tin cái THIỆN
trong anh sẽ lấn cái ÁC”.
Có lẽ một sự cảm thông như thế cũng nên được dành cho rất
nhiều nghệ sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà trí thức trong chế độ cộng sản. Vào cuối đời,
hầu như giới văn nghệ sĩ nào ngoài Bắc cũng đều ít hay nhiều tỏ dấu sám hối. Thật
ra, như tác giả Tưởng Năng Tiến đã nhận định: “Trước cường quyền và bạo lực thì
hèn và nhát để bảo vệ lấy thân là phản ứng chung của nhân loại, chứ chả riêng của
một giới người hay dân tộc nào cả. Uy vũ bất năng khuất không phải là một chọn
lựa dễ dàng, nhất là khi phải đối diện với thứ nhà nước toàn trị (cùng tất cả
những thủ đoạn ti tiện, đốn mạc, đê hèn và tàn ác) như chế độ hiện hành ở Việt
Nam”.
Trong mỗi một con người, lúc nào cũng đều diễn ra cuộc
chiến giữa lương tri và dối trá, giữa thiện và ác. Có người đã chiến thắng. Có
người đã ngã gục. Có người té ngã rồi lại đứng lên. Tất cả mọi người, cách này
hay cách khác, đều nhắc nhở tôi rằng sống là chiến đấu và chiến đấu liên lỉ để
chống lại sự dối trá, chống lại cái Ác ngay trong chính bản thân mình. Đó là cuộc
chiến giữa thiện và ác, giữa sự thật và dối trá, giữa can đảm và hèn nhát, giữa
tình thương và hận thù, giữa cảm thông và ác cảm, giữa khoan nhượng và cố chấp,
giữa tôn trọng và thành kiến.
Hình như, trong lãnh vực văn học, nhà phê bình văn học
Nguyễn Hưng Quốc đã có lần chia sẻ rằng nửa cuộc đời trước được ông dành để học
và nửa cuộc đời còn lại, ông dành để điều chỉnh, để phê phán, để gạn lọc và
ngay cả loại bỏ những gì mình đã học được. Sở học của tôi chưa tới đâu. Óc phê
bình của tôi cũng chưa đủ sắc bén. Nhưng tôi thấy cũng phải tự thú rằng nửa cuộc
đời phía trước, tôi đã sống và biện minh cho rất nhiều thành kiến và nửa cuộc đời
còn lại tôi phải vất vả chiến đấu chống lại những thành kiến có sẵn trong máu của
tôi hay được tiếp nhận qua văn hóa và ngay cả tôn giáo của tôi.
Chuyện xảy ra trong 2 ngày 11 và 12 tháng Tám năm 2017 vừa
qua tại thành phố Charlottesville, Tiểu
bang Virginia hẳn đã tạo ra một chấn động mạnh trong xã hội Mỹ. Cuộc biểu dương
lực lượng của phong trào thượng tôn da trắng có tên là “Unite the Right” (đoàn
kết phe hữu) đã kết thúc với cái chết thảm thương của một người thuộc phe biểu
tình ôn hòa. Nhìn từ bên nào, ai cũng nhận thấy rằng biến cố này đã tạo ra hay
đúng hơn đã mở rộng thêm một sự rạn nứt vốn đã âm ỉ từ lâu trong xã hội Mỹ vì vấn
nạn kỳ thị chủng tộc.
Đâu cần phải nhìn vào xã hội Mỹ để thấy và hiểu thế nào
là kỳ thị chủng tộc. Kỳ thị chủng tộc nằm trong chính DNA của tôi. Lúc nhỏ, mỗi
khi người Thượng từ trên núi xuống các làng mạc, mang theo đủ thứ hoa quả và
gia cầm để đổi lấy muối, tôi đã nhìn họ như bọn “mọi rợ”, kém thông minh, kém
văn minh, kém đủ thứ. Thời Đệ nhứt Cộng hòa, khi người Thượng được khuyến khích
hội nhập vào xã hội của người Kinh, họ được nâng lên một cấp là “người Việt Nam mới”. Dù
có “mới” cỡ nào đi nữa, trong mắt tôi, họ cũng vẫn là người Việt Nam hạng hai
thôi!
Khinh miệt người Thượng đã đành, niềm tự hào về “bốn ngàn
năm văn hiến” của dân tộc Việt Nam cũng hướng con mắt kênh kiệu và khinh miệt của
tôi về “đám” người Chàm, người Miên, người Lào và ngay cả người Thái...như những
dân tộc thấp kém hơn người Việt Nam. Thời chiến tranh, cái “đám” dân Phi Luật
Tân ăn bốc lại càng không thể “bình đẳng” với người Việt Nam ăn đũa của tôi!
Nói gì cái “đám Mỹ đen” trong quân đội Mỹ! Thời Pháp thuộc, cứ thấy mấy ông Tây
đen trong đám lính đánh thuê của Pháp là đã khiếp, nay mấy ông Mỹ đen đã to
con, đen thui lui, nhìn thấy chẳng ưa được
chút nào. Tôi không hiểu được và cũng không chấp nhận được sự kiện có những người
phụ nữ Việt Nam thời Pháp thuộc và thời Mỹ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam lại
đi lấy mấy ông Tây đen và Mỹ đen! Người ta đã chẳng gọi họ một cách khinh bỉ là “me Tây”, “me Mỹ” đó sao?
Tôi đã lớn lên như một tên kỳ thị chủng tộc và ít hay nhiều,
trong trường học cũng như trong gia đình, tôi đã được dạy để kỳ thị những người
không cùng màu da với mình. Không chừng nhiều người Việt Nam có lẽ cũng chẳng
hơn gì tôi. Trong chuyến đi Mỹ vừa rồi, khi trao đổi về vấn đề di dân, tôi biết
được rằng vợ của một người bạn của tôi đã ngăn cấm không cho con gái của họ tiếp
xúc hay kết thân với người Mỹ đen. Một người bạn tỵ nạn khác của tôi hiện đang
sống ở Cali cũng nói rõ: không thể chấp nhận cho 2 đứa con của mình làm quen
hay chơi với người Mỹ đen. Về lại Úc, tôi có kể lại chuyện ấy cho một người bạn
vốn rất cởi mở trong nhiều vấn đề, đặc biệt là hôn nhân đồng tính. Nhưng người
bạn này lại lắc đầu nói: không thể để cho con của mình lấy Mỹ đen vì thấy nó
“làm sao” ấy! “Làm sao” như thế nào thì ông bạn của tôi không giải thích, nhưng
tôi hiểu được rằng thành kiến đối với người Mỹ gốc Phi Châu dường như đã ăn sâu
trong đầu óc của tôi và rất nhiều bạn bè của tôi.
Đâu chỉ có kỳ thị chủng tộc, kỳ thị phụ nữ cũng đã mọc rễ
sâu trong tâm thức của tôi. Kỳ thị phụ nữ ngay trong gia đình của tôi: con trai
lúc nào cũng được cưng chiều, cho ăn cho học đầy đủ, còn con gái thì phải ở nhà
giúp gia đình, chăm sóc cha mẹ già yếu và rốt cục cũng chẳng được chia cho một tấc
đất nào. Thập nữ viết vô đã đành, mà “mười đứa con gái cũng không bằng hòn dái
của đứa con trai”. Truyền thống văn hóa và gia đình khinh miệt phụ nữ như thế
đã đành, mà “nhà đạo” của tôi cũng đâu có chịu bênh vực cho phụ nữ. Tôi đã lớn
lên trong niềm tin tôn giáo với cái nhìn miệt thị đối với nữ giới. “Chức tước”
trong “đạo” của tôi chỉ dành cho nam giới. Chỉ có đàn ông mới được làm “thày cả”
và chỉ có con trai mới được “giúp lễ”. Đàn bà con gái tuyệt nhiên chớ nên bén mảng
lên bàn thờ.
Tôi là một người kỳ thị. Chính sách Đa Văn Hóa của nước
Úc đã lần hồi mở ra cho tôi một cái nhìn rộng rãi hơn về sắc dân và văn hóa khác.
Nếu sinh ra và lớn lên hay tỵ nạn ở Mỹ, biết đâu tôi lại chẳng chụp lên những
người không cùng màu da, chủng tộc và tôn giáo của tôi đủ loại mũ: Mễ là bọn hiếp
dâm và buôn bán ma túy, Hồi giáo là bọn khủng bố, da đen là lũ người đần độn,
lười biếng, các nước Phi Châu là hố xí, di dân lậu là súc vật...!
Hơn nửa cuộc đời phía trước, tôi đã sống với đủ loại
thành kiến và kỳ thị. Thành kiến và kỳ thị đã nhào nặn suy nghĩ và hướng dẫn
hành động, nhứt là cái nhìn và cách đối xử của tôi với người khác.
Cũng như hai cụ Bùi Tín và Tô Hải, tôi thấy đã đến lúc
tôi phải nhìn lại và đấm ngực tự thú: tôi là một thằng hèn! Hay như nhà văn
Nguyễn Khải, người cũng đã gần hết một cuộc đời làm bồi bút để cúc cung phục vụ
chế độ cộng sản, tôi thấy cũng đã đến lúc phải lên đường để “đi tìm cái tôi đã
mất” vì thành kiến và kỳ thị. Có quay đầu nhìn lại tôi mới có thể tìm lại được
cái tôi đích thực của mình.
Đó là cái tôi của “nhân chi sơ tánh bổn thiện”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét