Chu Thập
40 Năm Mất Nước
Kỷ niệm 40 năm mất nước, tôi nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần ca
khúc “Một Chút Quà cho Quê Hương” của
cố nhạc sĩ Việt Dzũng, qua tiếng hát của Ngọc Lan, người nữ ca sĩ cũng yểu mệnh
như tác giả của bài hát.
Kể từ khi Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam, “nhạc vàng” đã trở thành “nhạc đồi
trụy”. Kể từ đó, nền âm nhạc đã một thời nuôi dưỡng tình tự dân tộc, lòng yêu
nước cũng như cho tôi biết mơ mộng, biết yêu đã chết dần chết mòn trong tôi.
Trái tim tôi hầu như khô cằn để có thể thưởng thức và thổn thức với âm nhạc Việt
Nam.
Mãi cho đến mùa Thu năm 1982, khi vừa đặt chân đến Thủ đô Paris, Pháp Quốc,
lang thang ở Quận 13, nơi có đông người Việt sinh sống, tôi mới tìm được một cuốn
băng vừa ý để qua những ngày dài buồn lê thê trong trại tạm cư tại một vùng ngoại
ô Paris. Đó là những bài “hùng ca” do nữ nhạc sĩ Nguyệt Ánh sáng tác và trình
bày. Cùng với người nữ nhạc sĩ này, tôi “vẫn
mơ một ngày về” lại quê hương, khi đất
nước thoát khỏi tay “bọn quỷ đỏ”. Tôi ôm cái máy cassette rẻ tiền và “nằm mơ”
cho tới khi chiếc máy không còn muốn “hát” và cái băng cassette mòn đến độ
không còn phát ra tiếng nữa. Có lẽ đó là thời gian cuối cùng tôi còn thưởng thức
nhạc Việt Nam. Những năm tháng sau đó, hòa nhập vào cuộc sống mới, lạc lõng giữa
những người không cùng màu da, ngôn ngữ và văn hóa với mình, tôi quên bẵng đi
âm thanh dịu vợi của dòng nhạc quê hương. Nếu có thỉnh thoảng ghé thăm gia đình
của bạn bè, được cho thưởng thức những chương trình văn nghệ do các trung tâm
như Thúy Nga Paris, Asia hay Vân Sơn sản xuất, tôi cũng chỉ ngồi bất động như một
cái thây chết để chỉ sực tỉnh với những màn hài kịch cười ra nước mắt xoay
quanh cuộc sống của người tỵ nạn.
Vậy mà năm nay, kỷ niệm 40 năm mất nước, tôi lại lắng nghe ca khúc “Một Chút Quà cho Quê Hương” đến gần như
thuộc lòng. Có lẽ cả đời chưa có bản nhạc Việt Nam nào làm cho tôi xúc động cho
bằng ca khúc này. Biết tôi thích bản nhạc, nhà tôi đã cho thu lại và cài vào một
chương trình âm nhạc đặc biệt trên xe để mỗi lần nổ máy xe, ca khúc lại được
phát ra. Ca từ trong bản nhạc đã trở thành “tâm nguyện” và lời cầu kinh hằng
ngày của tôi. Tôi biết rằng bao lâu tôi còn sống kiếp tỵ nạn thì bấy lâu ca
khúc này cũng trở thành bất hủ trong tôi. Với ca khúc này, cố nhạc sĩ Việt Dzũng
cũng đã trở thành bất tử và nữ ca sĩ Ngọc Lan, với tiếng hát vượt thời gian,
cũng sẽ có giọng hát trẻ mãi không già trong trái tim tôi. Cả hai đã sống mãi
trong tôi. Thật ra, tâm tình của cố nhạc sĩ Việt Dzũng và tiếng hát của nữ ca
sĩ Ngọc Lan cũng chính là tâm tình của tôi, kể từ khi tôi được đặt chân đến bến
bờ tự do. Và tôi nghĩ đó cũng là tâm tình của tất cả những người Việt hải ngoại
nào còn ý thức được mình là người tỵ nạn cộng sản. Mang tiếng là “Một Chút Quà cho Quê Hương” nhưng nghe
đến đâu, tôi thấy đắng lòng đến đấy. Bởi đó là tất cả tâm tình, sự chăm chút
yêu thương qua từng món quà cho từng người thân.
Tôi sẽ không bao giờ quên những kỷ niệm đẹp nhứt ở đầu đời tỵ nạn. Đó là những
lần chắt chiu từng đồng và lặn lội từng khu phố để mua quà gởi về cho người
thân ở Việt Nam. Khi thì thùng thuốc Tây. Lúc thì năm ba thước vải. Món quà “nặng
ký” nhứt mà tôi đã gởi về cho vợ chồng cô em gái là một chiếc xe Honda đàn ông
67, loại nói theo ngôn từ trong nước là “đã qua sử dụng”, được nhập từ Nhựt Bổn
vào Pháp. Dù chưa phải ăn mắm hút dòi hoặc lang thang đầu đường xó chợ ở quê
người, nhưng “cháy túi” vì một chút quà gởi về quê hương là chuyện đã từng xảy
ra cho tôi. Tôi biết có biết bao nhiêu người tỵ nạn cũng đã từng lâm vào một hoàn
cảnh như tôi. Đó là chưa kể đến trường hợp vì người thân còn ở Việt Nam mà nhiều
gia đình tỵ nạn đã phải xào xáo với nhau, ngay cả đi đến đổ vỡ.
Mẹ tôi qua đời ngay chính trong cái Tết đầu tiên sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm
Miền Nam. Tôi không kịp “gởi về cho mẹ dăm
chiếc kim may (để) mẹ may hộ con tim gan quá đọa đày” hay “dăm gói chè xanh (để) mẹ pha hộ con nước mắt
đã khô cằn”. Còn với các thành phần khác trong gia đình, từ cha, anh, chị
và em, cùng với các cháu, hầu như món quà nào mà cố nhạc sĩ Việt Dzũng đã gởi về
cho người thân, tôi cũng đã hơn một lần cắc ca cắc củm từng đồng để mua sắm và
gởi về. Cha tôi đã qua đời. Chưa đến nỗi “ra pháp
trường phơi thây”, nhưng, cũng như mọi người Việt Nam khác, cha tôi cũng đã
quằn quại hết cả tuổi già của người trong nhà tù lớn là cả nước và không bao giờ
có cơ hội gặp lại tôi trước khi nhắm mắt. Anh tôi cũng đã từng nhận được bao
nhiêu “bao thuốc lá” để “đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay”
trên vùng kinh tế mới cho đến khi ngã gục vì sốt cấp tính. Em tôi và gia đình
được may mắn thoát khỏi kiếp đọa đày để tiếp với tôi một tay trong việc gởi quà
về cho quê hương.
Hiện tôi chỉ còn hai bà chị già đang sống ở Việt Nam. Mỗi năm, tôi vẫn cố gắng
gởi về cho hai chị “một ít diêm nhóm lửa
để đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương” của những năm tháng còn lại
trong một nơi mà ánh sáng mặt trời của hy vọng và tình thương dường như không
còn chiếu tới.
Từ nhỏ, tôi đã được truyền đạt cho thứ đạo lý của “Cho và Nhận”. Tôi đã được
dạy rằng cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi được dệt bằng những cho và nhận. Người nhận
sẽ được nhắc nhở để sống tâm tình nền tảng nhứt của đạo làm người là lòng biết
ơn. Người cho thì dĩ nhiên sẽ có được niềm vui của trao ban, bởi vì “cho thì có
phúc hơn nhận lãnh”. Xa quê hương, người tỵ nạn nào mà chẳng buồn. Nhưng bù lại,
nỗi buồn ấy có thể vơi đi nhờ những trao gởi về cho người thân còn ở quê hương.
Từ những thùng quà khi mới chân ướt chân ráo đặt chân đến bến bờ tự do cho đến
những ngân khoản lớn hơn mà cuộc sống ổn định và khá giả đã cho phép, tư cách tỵ
nạn của người Việt Nam không được định nghĩa bằng qui chế tỵ nạn do Cao Ủy Tỵ Nạn
Liên Hiệp Quốc cấp, mà bởi chính tấm lòng trao gởi về quê hương. Còn là người tỵ
nạn là còn gởi quà về quê hương. Còn là người tỵ nạn là còn biết trân quý và bảo
tồn nét đẹp cao cả nhứt trong con người Việt Nam là san sẻ và trao tặng. Người
Việt tỵ nạn bỏ nước ra đi, nhưng có lẽ ai cũng mang theo trong đáy thẳm tâm hồn
một quê hương và nhứt là những đức tính cao quý nhứt làm nên con người Việt
Nam, mà tuyệt đỉnh là lòng yêu nước thương nòi được thể hiện qua “một chút quà gởi về quê hương”.
Dường như Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), người nữ tu đã từng phục vụ những
người nghèo khổ trong các khu ổ chuột tại Calcutta, Ấn Độ và trên khắp thế giới,
đã có lần nói rằng “trao ban thực sự là trao ban cho đến mức độ cảm thấy mất
mát và tổn thương”. Tôi có được niềm vui khi gởi chút quà về quê hương. Nhưng cứ
mỗi lần làm nghĩa cử ấy, tôi lại cảm thấy ray rứt, tổn thương như thể mình đang
làm một việc bất chính. Sở dĩ, cũng như rất nhiều người tỵ nạn khác, tôi rơi
vào tâm trạng ấy là bởi vì hành động gởi quà về quê hương của tôi vô tình góp
phần củng cố cái chế độ đang “đọa đày quê
hương” của tôi.
Tôi có nghe nói rằng trong năm 2015 này, theo ước tính của chính Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, tổng cộng số tiền người Việt hải ngoại gởi về quê hương sẽ
lên đến 14 tỷ Mỹ kim. So với năm trước, số tiền này tăng gần 3 tỷ Mỹ kim. Số tiền
này chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, bởi vì nó
tương đương với khoảng 8 phần trăm tổng sản lượng quốc nội của Việt Nam. Với số
tiền mà người Việt hải ngoại gởi về quê hương hằng năm, Việt Nam lọt vào danh
sách 10 quốc gia đón nhận “kiều hối” cao nhứt trong năm vừa qua (theo BBC Việt
Ngữ 12/1/2015).
Số tiền ấy đi đâu, người Việt hải ngoại nào mà chẳng biết. Nó không bị lãng
phí trong việc bảo vệ lăng tẩm của người đã “cõng rắn về cắn gà nhà”, xây dựng
tượng đài thì cũng lọt vào túi của trên 2 triệu đảng viên cộng sản để họ ngồi
hưởng thụ ngay trên lưng của đại đa số dân nghèo mà thu nhập mỗi ngày có khi
không bằng một Mỹ kim.
Những năm còn trong nước, tôi rất thích thú với một câu chuyện tiếu lâm mà
tôi cho là ý nghĩa nhứt về chế độ cộng sản. Chuyện kể rằng có một người phụ nữ
nghèo nọ vào nhà thờ cầu nguyện. Bà quỳ trước tượng Đức Mẹ và khẩn khoản xin Đức
Mẹ cho bà đúng 10 đồng để đủ mua gạo và thức ăn cho gia đình trong một ngày.
Trong một chế độ công an trị, chuyện những người tuyên thệ “còn đảng còn mình”
đi quanh quẩn trong các giáo đường để theo dõi người dân là chuyện thường ngày ở
huyện. Cho nên hôm đó, khi người đàn bà nghèo đang cầu khẩn với Đức Mẹ, có hai
tên công an đứng rình rập để theo dõi nhứt cử nhứt động của bà. Họ ra ngoài bàn
tính với nhau một hồi rồi mỗi người cố gắng rút từ trong túi áo ra một số tiền.
Họ đếm đi đếm lại nhưng tổng cộng chỉ được đúng 2 đồng. Họ bỏ tiền vào bì thơ
và viết lên đó dòng chữ: “Đảng cho”,
với hàm ý muốn dạy cho người đàn bà rằng tôn giáo tín ngưỡng là chuyện mê tín dị
đoan, rằng ở Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, mọi nhu cầu của người dân đều
được Đảng “no” (lo) cho cả. Rồi chờ
cho người phụ nữ úp mặt xuống bàn quỳ để cầu nguyện, họ rón rén đặt bì thơ trước
mặt bà. Sau đó họ tìm một góc khuất trong nhà thờ để xem phản ứng của người đàn
bà. Khi ngước mặt lên để cầu khẩn tiếp với Đức Mẹ, người đàn bà ngạc nhiên vô
cùng khi nhìn thấy bì thơ. Chị mừng rỡ không thể tưởng tượng được khi được
“phép lạ”. Nhưng sau khi đã đếm tiền xong, chị lại ngước mắt nhìn lên Đức Mẹ và
than thở: “Lạy Đức Mẹ, lần sau nếu Đức Mẹ có thương tình cho con quà thì xin Đức
Mẹ trực tiếp trao cho con, bởi vì trao qua Đảng, chúng nó lấy mất của con đến 8
đồng”.
Tôi biết những người thân của tôi có sống còn trong chế độ cộng sản Việt
Nam hiện nay là nhờ “phép lạ”. “Phép lạ” từ những gói quà và điều được gọi là
“kiều hối” mà người Việt hải ngoại vẫn tiếp tục gởi về quê hương. Nhưng vì phải
“qua Đảng” cho nên 10 phần, thì “chúng nó” đã ăn chận, ăn bớt đến cả tám phần. Như Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
đã có lần ví von, cộng đồng người Việt hải ngoại là một thứ “bò sữa” bị chế độ
cộng sản Việt Nam vắt không biết mỏi mệt.
Mỗi lần gởi chút quà mọn về quê hương, một người tỵ nạn như tôi lại nghĩ đến
thân phận “bò sữa” ấy. Đau khổ lắm. Nhưng nếu tôi không làm thân “bò sữa” ấy,
ai sẽ thay tôi để lo cho hai bà chị già chẳng còn biết nương tựa vào bất cứ một
người nào xung quanh mình. Tôi hình dung ra được cuộc sống neo đơn, khốn khổ của
hai bà chị là bởi hầu như ngày nào tin tức nhận được từ trong nước cũng đều nói
với tôi rằng xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội “vô cảm”. Sống chết mặc bay. Chẳng ai còn muốn nghĩ đến người khác.
Cuộc sống dưới chế độ cộng sản đã làm cho con người Việt Nam ra tồi tệ như thế.
Đã có biết bao nhiêu người lên tiếng báo động về tình trạng “vô cảm” ấy của
người Việt Nam hiện nay. Mới đây, trên báo mạng Đàn Chim Việt, tôi lại đọc được
một bài của tác giả “Người Buôn Gió”. Tác giả ghi nhận các vụ thảm sát, các vụ tự thiêu vì đất đai bị
cưỡng chiếm, chuyện ngộ độc vì thức ăn độc hại bán đầy dẫy và nhứt là tai nạn
giao thông. “Mỗi năm có khoảng 11 ngàn
người chết vì tai nạn giao thông, gấp 15 lần con số người chết vì bệnh ung thư;
hàng chục ngàn sinh viên mỗi năm ra trường thất nghiệp hoặc không tìm được việc
đúng ngành nghề; hàng chục ngàn người hàng năm trở thành tội phạm để sống cuộc
đời trong các nhà tù”. Chuyện xảy ra như cơm bữa.
Vậy mà bên cạnh đó, vẫn có những người, như một cô bạn của tác giả, vẫn thản
nhiên đưa lên Facebook “những tấm hình đi du hí ở đâu đó”. Theo ghi nhận của
“Người Buôn Gió”, “không phải riêng mình
cô, mà có hàng chục ngàn người như cô trên các trang mạng xã hội ngày ngày đưa
ra những tấm hình cho thấy họ mới mua xe, mua váy, đồng hồ, những chuyến đi du
ký danh lam thắng cảnh”.
Tác giả ngậm ngùi chia sẻ: “Còn tôi
thì hàng ngày vẫn đọc tin, suy nghĩ về những cái chết tự thiêu, những cái chết
tai nạn, bệnh tật diễn ra ở Việt Nam. Tôi nghĩ cô bạn là phụ nữ, mà phụ nữ ham
làm đẹp là mối quan tâm nhất của họ, chuyện thế là thường. Tôi đem tâm tư nói với
anh bạn về những cái chết, những thứ diễn ra ở Việt Nam. Anh bạn tôi bảo - Tu rồi,
không quan tâm thế sự, giờ lo kiếm tiền thôi” (Người Buôn Gió, Toàn Người Tốt
Mà Vẫn Buồn, Đàn Chim Việt online 14/8/2015).
“Người Buôn Gió” nêu lên câu hỏi nhức nhối: “Cô bạn, anh bạn tôi đều là người tốt, tôi chắc chắn họ không bao giờ
nghĩ mưu hại ai dù chỉ trong đầu họ, trong cuộc đời họ cũng giúp đỡ bạn bè rất
nhiều lần. Tại sao những người tốt như họ lại không quan tâm đến những chuyện
người dân tự thiêu, bị công an đánh chết, thực phẩm độc hại bán đầy cho người
nghèo...?” (bđd)
Những trăn trở trên đây của “Người Buôn Gió” không thể không khiến tôi liên
tưởng đến trận động đất tại Nepal ngày 25 tháng Tư vừa qua. Cũng trên Facebook
và các trang mạng xã hội, nhiều người trong nước cũng như bên ngoài đã nhìn thấy
được hình ảnh của một thiếu nữ Việt Nam đứng “tươi cười” trước một cao ốc sụp đổ
vì cơn địa chấn. Chắc chắn đã có nhiều người chết trong cao ốc và không chừng
cũng còn nhiều nạn nhân đang quằn quại chờ được cứu sống. Người thiếu nữ là
thành viên của một phái đoàn Việt Nam sang Nepal để gọi là học hỏi và nghiên cứu
về những vấn đề liên quan đến động đất. “Nụ cười” tươi rói của người thiếu nữ
trước nỗi đau của cả một quốc gia mình đang viếng thăm chỉ có thể nói lên một
điều: cô đã quen sống “vô cảm” trước nỗi khổ đau và mất mát của người khác!
Chế độ độc tài đảng trị mà những người cộng sản Việt Nam đã áp đặt lên Miền
Bắc từ 70 năm qua và tại Miền Nam từ 40 năm nay, đã hoàn toàn làm cho người Việt
Nam biến chất. Trên khắp đất nước, đi đâu người ta cũng thấy hai chữ “văn hóa”.
Nhưng ngoài thứ văn hóa “vô văn hóa”, người ta chẳng còn thấy bất cứ một chút
văn hóa nào của dân tộc Việt Nam như con người Việt Nam ở Miền Bắc trước năm
1945 và con người Việt Nam ở Miền Nam trước năm 1975 đã từng được nhào nặn.
Biểu hiện rõ ràng nhứt của thứ văn hóa “vô văn hóa” mà người cộng sản đã tạo
ra cho dân tộc Việt Nam chính là tính “vô cảm” hiện nay của đại đa số người Việt
trong nước: vô cảm trước nỗi khổ đau của người đồng bào ruột thịt, vô cảm trước
những tệ nạn xã hội đầy dẫy trong nước, vô cảm trước vận mệnh của đất nước. Người
khác có chết đói trước mắt cũng mặc kệ. Tệ nạn xã hội có xảy ra như cơm bữa
cũng mặc kệ. Đất nước có rơi vào tay ngoại xâm cũng mặc kệ. Bè lũ tham tàn có cỡi
trên đầu trên cổ cũng mặc kệ. “Tu rồi,
không quan tâm thế sự, giờ lo kiếm tiền thôi”.
Mỗi lần lắng nghe ca khúc “Một chút quà cho quê hương”, tôi luôn hình dung
ra khuôn mặt đau khổ của nhạc sĩ Việt Dzũng và tiếng khóc nức nở của ca sĩ Ngọc
Lan. Cả hai đều đã ra đi với “mơ ước một
ngày quê hương sẽ thanh bình”. Tôi cũng có cùng một mơ ước như thế, bởi vì
kể từ khi những người Cộng sản cưỡng Miền Nam, Việt Nam chưa bao giờ thực sự có hòa bình. Với
tôi, hòa bình không hề có nghĩa là không có tiếng súng. Bởi lẽ, kể từ ngày 30
tháng Tư năm 1975 đến nay, người Cộng sản đã mở ra một cuộc chiến tranh triền
miên nhắm vào chính dân tộc Việt Nam. Đó là chiến tranh của hận thù, của đàn
áp, của tù đày, của nghèo đói, của nô lệ, của tham nhũng, của vô số tệ nạn xã hội,
của vô đạo. Trong chiến tranh võ trang, hàng triệu người Việt Nam đã chết vì bom đạn. Còn trong
cuộc chiến hiện nay, thân xác người Việt Nam có thể còn nguyên vẹn, nhưng nhân
cách của họ chết dần chết mòn vì vô cảm, vì dửng dưng, vì dối trá, vì ích kỷ...Đó
là cái chết khủng khiếp nhứt trong mọi cái chết, bởi vì đó là cái chết làm cho
con người đánh mất chính mình.
Kể từ ngày bỏ nước ra đi đến nay, tôi chưa từng tham gia bất cứ một tổ chức
“phục quốc” hay “kháng chiến” nào. Tôi cũng chưa từng là thành viên hay đảng
viên của bất cứ một phong trào hay đảng phái nào đang tranh đấu cho tự do và
dân chủ tại Việt Nam. Tôi ngưỡng mộ những người dám hy sinh vì đại cuộc như thế.
Tôi không biết cố nhạc sĩ Việt Dzũng có tranh đấu trong một tổ chức hay đảng
phái nào như thế không. Nhưng tôi cảm phục anh bởi vì qua anh, tôi có được “tâm
nguyện” luôn muốn “gởi một chút quà cho quê hương”. Đó không chỉ là một “dăm ba
thước vải”, “kẹo bánh thênh thang” hay một khoản “kiều hối”, mà là tấm lòng muốn
trao ban và san sẻ. Đó là tấm lòng làm nên bản sắc tỵ nạn đích thực của tôi. Thực
vậy, quà cho quê hương không hẳn chỉ là những hiện vật hiện kim để cải thiện phần
nào cuộc sống người thân. Quà tinh thần như tình yêu thương lá lành đùm lá
rách, những nâng đỡ tinh thần, như sự chia sẻ kiến thức, thông tin, như cách sống
dựa trên sự tin tưởng, tình liên đới...giữa người với người, còn quan trọng hơn
cho quê hương, nơi mà tình người và những giá trị văn hóa, đạo đức đã và đang bị
hủy diệt. Tôi tin rằng những người không cùng màu da, tiếng nói và văn hóa xung
quanh tôi sẽ hiểu được thế nào là một người Việt Nam qua những san sẻ và trao
ban ấy. Đó là lòng yêu nước mà tôi muốn bày tỏ trước mặt người “ngoại quốc”.
Tôi cũng tin rằng lòng yêu nước được tôi gói ghém trong “một chút quà cho quê hương” có thể là những viên đạn bắn vào sự vô
cảm, lỗ hổng đạo đức mà người Cộng sản đang tạo ra cho dân tộc và xã hội Việt
Nam hiện nay.
Với “một chút quà cho quê hương”,
tôi chỉ “mơ ước một ngày quê hương sẽ
thanh bình” để cùng với cố nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) hát lên :
“Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết
thương người
Từ đây người biết yêu người”
(Mùa Xuân Đầu Tiên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét